Bản quốc ngữ Nguyễn Quân
1. Nước Nam thường có thánh tài Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường Kia Nhị thuỷ nọ Dao sơn Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho 5. Học cách vật mới dò tới chốn Chép ghi làm một bổn xem chơi. Muôn việc cũng bởi tại người Suy ra mới biết sự đời nhường bao Dẫ
Nội dung bài thơ: Bản quốc ngữ Nguyễn Quân
1. Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường
Kia Nhị thuỷ nọ Dao sơn
Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho
5. Học cách vật mới dò tới chốn
Chép ghi làm một bổn xem chơi.
Muôn việc cũng bởi tại người
Suy ra mới biết sự đời nhường bao
Dẫu ai có vàng treo ngàn hột,
10. Chẳng báu hơn chữ một nghĩa mười.
Tiên hoàng từ trước mở ngôi,
Cờ lau tập trận thay trời trị dân.
Mới được mười hai dư xuân,
Lê Hành kế vị xa gần âu ca.
15. Ba mươi năm ngôi nhà được lẻ,
Đến Ngoạ triều mới kể tai bay.
Ngôi trời để Lý vào thay
Tám cành hoa nở đến ngày dực phân.
Chiều Hoàng là ả nữ quân
20. Thấp bề nhan sắc trao Trần thái tôn
Thập nhị thế tiếng đồn nhân hậu.
Trăm bảy mươi ghi dấu thất niên
Đông A chốn ấy còn bền
Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.
25. Đại Ngu được mười bốn năm
Hậu thập nhị để lại chăm phục hồi
Suy ra mới biết sự trời
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia.
Tây Sơn sừng sực kéo ra,
30. Ngẫm xem thế tục gọi là phương ngôn.
Đến Phụ nguyên đời còn chinh chiến,
Trải bao thu dâu biển cát lầm,
Ngàn xa vực thẳm nguồn thân
Nào ai biết lẽ nhân tâm lúc này.
35. Chó mừng chúa gà bày cộc tác,
Lợn ăn no tha rác nằm chơi,
Đó mới kể là đời thịnh thế.
Mà thiên hạ sao xẻ làm hai.
Người Đoài cũng thực ấy tài,
40. Mà cho người Sở toan bài lập công.
Bởi Trần vương ngu không kể xiết,
Mới phen này dê giết lại dê.
Đến khi thực tận binh bì,
Âm binh ở giữa dễ thì biết sao.
45. Trời cho ta mang dao chém quỷ,
Khắp dưới trời bình trị quỷ hư.
Ai từng cứu con thơ sa giếng,
Chờ một lòng chinh chiến phá nhau.
Muôn dân chịu những âu sầu,
50. Kể dư nhị ngũ mới hầu biết cho.
Chốn đông nam là lò khổ ải,
Lánh cho xa kẻo phải đao binh.
Bắc phương chỉn thực đế kinh,
Náu mình chưa dễ náu danh được nào.
55. Vả người là đấng anh hào,
Đánh làm sao đưọc ước ao đêm ngày.
Ấy những quân đời này thế ấy,
Lòng trời xui ai nấy biết đâu.
Chớ đừng tham của làm giàu
60. Tìm nơi tam hiểm ngõ hầu bảo thân.
Đà giang chốn ấy cũng gần,
Kim ngưu chốn ấy cũng gần thuở nơi.
Ba Thục riêng một góc trời,
Thái Nguyên một gải là nơi trú đình.
65. Tứ bề núi đá xanh xanh,
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay.
Bốn bụt xuất thế đã chầy
Chưa chọn được ngày ra cứu nhân dân.
Ấy là điềm xuất thánh quân,
70. Hễ ai biết được thì thân mới toàn.
Chữ rằng:" hữu xạ tự nhiên hương",
Có phải tầm thường thuốc dấu bán sao?
Nắng lâu ắt có mưa rào,
Vội chi tát nước xôn xao cày bừa.
75. Hạn rồi thì phải có mưa,
Buồm giương gặp gió cày bừa gặp cơn.
Tuần này thánh xuất khảm phương,
Sự thật đã tường chẳng lọ phải suy.
Quân hùng binh dậy sơn khê,
80. Kẻ khoe cứu nước, người khoe trợ đời.
Xem thấy những sương rơi tuyết lạnh,
Loài bất bình tranh cạnh hung hăng,
Một cơn sóng dậy đất bằng,
Thánh nhân ra mới cứu hằng sinh linh.
85. Lược thao văn võ tài tình,
Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng.
Tam công gặp hội vui mừng,
Bõ khi cá nước vẫy vùng biển sông.
Bõ khi chém rắn vẽ rồng,
90. Bõ khi non bắc ải đông mịt mù
Bõ khi kẻ VIệt người Hồ,
Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường.
Càn khôn phú tái khôn lường,
Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng.
95. Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân,
Ta hồ vô phụ vô quân,
Đào viên tản lạc ngô dân thủ thành.
Đà giang phúc địa giáng linh,
100. Cửu trùng thuỵ ứng long thành ngũ vân.
Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.
Trần công nãi thị phúc tâm,
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du.
105. Tướng thần hệ xuất Y Chu
Thử kỳ phục kiến Ðường ngu thi thành
107. Hiệu xưng thiên hạ thái bình
Bài thơ Bản quốc ngữ Nguyễn Quân của tác giả Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - 阮秉謙, Trạng Trình, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - 阮秉謙, Trạng Trình
Nghệ danh: Nguyễn Bỉnh Khiêm
Tên thật: 阮秉謙, Trạng Trình
Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác