Hàn Tín giảng binh xứ
Bách vạn tinh huy bắc độ Hà, Yên giao địa hạ hữu trầm qua. Du du sự hậu nhị thiên tải, Đãng đãng thành biên nhất phiến sa. Khoái ngũ vị thành cam lục lục, Quân tiền do tự thiện đa đa. Khả liên thập thế sơn hà tại, Hậu thệ đồ duyên Giáng Quán gia.
Nội dung bài thơ: Hàn Tín giảng binh xứ
韓信講兵處
百萬旌麾北渡河,
燕交地下有沉戈。
悠悠事後二千載,
蕩蕩城邊一片沙。
噲伍未成甘碌碌,
君前猶自善多多。
可憐十世山河在,
厚誓徒延絳灌家。
Hàn Tín giảng binh xứ
Bách vạn tinh huy bắc độ Hà,
Yên giao địa hạ hữu trầm qua.
Du du sự hậu nhị thiên tải,
Đãng đãng thành biên nhất phiến sa.
Khoái ngũ vị thành cam lục lục,
Quân tiền do tự thiện đa đa.
Khả liên thập thế sơn hà tại,
Hậu thệ đồ duyên Giáng Quán gia.
Dịch nghĩa
Trăm vạn cờ xí vượt sông Hoàng Hà phía bắc
Dưới đất Yên còn vùi gươm giáo
Việc xa xôi xảy ra đã hai nghìn năm
Mênh mông ở bên thành một bãi cát
Cùng hàng với bọn Phàn Khoái, chưa thành công, cam chịu tầm thường
Trước mặt vua vẫn tự cho (có tài cầm quân), “càng nhiều càng tốt”
Thương thay, sơn hà nhà Hán đã được mười đời rồi
Nhưng chỉ có Giáng hầu, Quán Anh là được hưởng lời thề nồng hậu (của vua Hán Cao Tổ)
Bài thơ Hàn Tín giảng binh xứ của tác giả Nhà thơ Nguyễn Du - 阮攸, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Nguyễn Du - 阮攸
Nghệ danh: Nguyễn Du
Tên thật: 阮攸
Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Nguyễn Du - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác
Tác giả Nguyễn Du, Thơ Nguyễn Du
Vãn há Đại Than, tân lạo bao trướng, chư hiểm câu thất
Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm hầu tác
Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 1
Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ
Độ Hoài hữu cảm Văn thừa tướng
Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích
Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 2
Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài
Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch
Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 1