Cái diều giấy

Thơ   •   Thứ tư, 10/11/2021, 17:03 PM

Gió hiu hiu nhẹ cánh hồng, Nhang dọc dầu ta cao lướt không. Đỉnh núi phau phau mờ thức bạc, Giữa trời lồ lộ dãi vầng hồng. Chín lần lèo rủ, dầu thong thả, Bốn biển lòng vui phỉ ngóng trông. Có thuở liệng chơi ngoài lục hợp (?) Hư không, loà

Nội dung bài thơ: Cái diều giấy

Gió hiu hiu nhẹ cánh hồng,

Nhang dọc dầu ta cao lướt không.

Đỉnh núi phau phau mờ thức bạc,

Giữa trời lồ lộ dãi vầng hồng.

Chín lần lèo rủ, dầu thong thả,

Bốn biển lòng vui phỉ ngóng trông.

Có thuở liệng chơi ngoài lục hợp (?)

Hư không, loài ác rẽ đùng đùng.


Bài thơ Cái diều giấy của tác giả Nhà thơ Lê Thánh Tông - 黎聖宗, Lê Tư Thành, 黎思誠, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.

Nhà thơ Lê Thánh Tông - 黎聖宗, Lê Tư Thành, 黎思誠

Nghệ danh: Lê Thánh Tông

Tên thật: Lê Thánh Tông 黎聖宗, Lê Tư Thành, 黎思誠

Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Lê Thánh Tông - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác

icon Tác giả Lê Thánh Tông, Thơ Lê Thánh Tông, Tập thơ chữ Nôm

Tổng hợp

Cùng tập thơ: Thơ chữ Nôm

Vịnh làng Chế

Thơ   •   10.11.2021
Bóng ác non đoài ban xế xế, Bỗng đâu đã tới miền Tam Chế. Mênh mang khóm nước nhuộm màu lam, Chận ngất đỉnh non lồng bóng quế. Chợ họp bên sông gẫm có chiều, Thuyền bày trên đất xem nhiều thể. Cảnh vật bằng đây họa có hai, Vì dân khoan giản bên tô th

Chùa Non Nước

Thơ   •   10.11.2021
Nơi gọi Bồng, nơi gọi Nhược, Hai bên góp làm Non Nước, Đá chồng hòn thấp, hòn cao, Sóng trục lớp sau, lớp trước. Phật hư vô, cảnh thiếu thừa, Khách danh lợi buồm xuôi ngược. Vẳng nghe trên gác boong boong, Lẩn thẩn dưới chùa lần bước.

Đêm đông dậy sớm

Thơ   •   10.11.2021
Ví canh thì cũng chửa nên tan, Sẽ thức, vì chưng xống áo đan. Góc giậu buồn nghe lau, Bên tường ngại mảng dế ca đàn. Cớ chi Cô Dịch khuya lay cửa ? Mà giục Huyền Minh sớm gác yên. Quân tử dằn lòng ngơi chút nữa, Một mai có kẻ ruớc xuân sang.

Vịnh người đi cày (II)

Thơ   •   10.11.2021
Một cày, một cuốc, phận đà đành, Song viết ai bằng song viết canh ? Diệt, vắt, tay cầm quyền tướng súy, Thừa lưa thóc chứa lộc công khanh. Công A hành đến trời biếc. Tiết Tử Lăng còn núi xanh. Ngoài ấy có nơi hơn thú nữa, Ruộng lành dõi được giống nh

Thợ cạo

Thơ   •   10.11.2021
Mở mặt trần gian ức vạn người Ðông tây nam bắc phải làm tôi. Vài thanh gươm bạc xông trăm trận, Mấy chiếc qua vàng đóng một nơi. Kẻ trọng tam đồ hay bá gáy, Người cao nhất phẩm cũng cầm tai. Trăm năm tiêu sẵn kho vô tận, Xếp túi kiền khôn chỉ việc ng

Cái chổi

Thơ   •   10.11.2021
Lời chúa vâng truyền xuống ngọc giai, Cho làm lệnh tướng quét trần ai. Một phen vùng vẫy, trời tung gió, Bốn cõi tung hoành, đất sạch gai. Ngày vắng dủ mây cung Bắc Hán, Ðêm thanh tựa nguyệt chốn lâu đài. Ôm lòng gốc rễ, lâu càng dãi, Mòn mỏi lưng cò

Vương Tường oán trách non sông

Thơ   •   10.11.2021
Tắt qua dặm liễu, trải ngàn dâu, Sầu chất non sông nặng một bầu. Giọt ngọc hai hàng chan bể thảm, Mày châu đôi đỉnh giát thành sầu. Chàm pha, ngại thấy doành xanh mặt, Mây nổi, thêm lo đá bạc đầu. Ngư địch, tiều ca đâu dắng dỏi, Bên tai đồng vọng tiế

Vương Tường oán triều đình

Thơ   •   10.11.2021
Vật chi muông cỏ dám lăng loàn ? Âu hẳn trong triều ít kẻ ngoan ? Mặt thấy thư Hồ, văn vỡ mật, Tai nghe nhạc bắc, võ run gan. Mỡ thơm luống để nuôi thù khấu ? Bùn sũng nào hay đắp ải quan ? Vực nước ví dầu tài Vệ, Hoắc, Tanh hôi chi để lụy hồng nha

Hoa sen non

Thơ   •   10.11.2021
Dìu dịu Lam Điền ngọc mới tương, Hồ thanh, sắc ánh, mặt dường gương. Ngọc in làm dáng tiền sơ đúc, Chàm nhuộm nên màu, tán chửa giương. Lạt biếc mới khai mày Thái mẫu, Thắm hồng còn kín má Vương Tường. Khách thơ hứng nghĩ hiềm chưa đủ, Mười trượng h

Chó đá (II)

Thơ   •   10.11.2021
Lần kể xuân thu biết mấy mươi, Cửa nghiêm thăm thẳm một mình ngồi. Đêm thanh nguyệt dãi màng trông nguyệt, Ngày vắng ruồi bâu biếng ngáp ruồi. Cắn kẻ tiểu nhân, nào đoái miệng ? Chào người quân tử, chẳng phe đuôi. Phỏng trong sức có ngàn cân nặng, Dầ

Hoạ bài Người kiếm cá

Thơ   •   10.11.2021
Thuyền ai chiếc bé tiếng đà om, Thấy lũ thằng chài đứng vịnh nom. Nửa tấm áo tơi che lủn củn. Một cần câu trúc uốn khom khom. Ngư hà song viết ngày hằng đủ, Bạng duật đôi co thế ngại nhòm. Chờ thuở nguồn Đào tiên lại gặp, Cùng nhau cặn kẽ thuở đầu m

Lưu Nguyễn trở lại không gặp tiên nữ

Thơ   •   10.11.2021
Ngọc Chân lại đến hỏi chưng đây, Rầy đã rêu rêu bụi bụi đầy. Ca khúc rền rền cách núi, Lành doành văng vẳng khoá mây. Thức cây chẳng phải xanh phen nọ, Điểm khói nào còn biếc bấy chầy. Mặt nước hoa trôi lành lạnh đấy, Người tiên mời rượu ở đâu rầy?

Hoa

Thơ   •   10.11.2021
Cửa ngọc sinh thành giống lạ nhường, Hoa hoa đua nở, nức mùi hương. Má hồng mới học dồi phấn, Nhụy ngọc chưa hề bén sương. Khoe tốt hơn chưng vườn Lãng Uyển, Kết đôi còn đợi chúa Đông hoàng. Lại mừng được đất phồn hoa nữa, Cành ngọc đôi khi kết quả v

Lưu Nguyễn từ biệt các tiên nữ

Thơ   •   10.11.2021
Một niềm nhớ chúa một âu nhà, Cửa động dùng dằng ngại bước ra. Hương tứ phiêu, khi gió thổi, Cố viên lạc, thuở trăng tà, Non cao mây phủ dư ngàn dặm, Sông thẳm sầu đeo mấy phút hoa. Dầu nhẫn bắc nam đường có cách, Bao nhiêu cảnh cũ mựa quên mà.

Đáp thơ “Chồng bỏ”

Thơ   •   10.11.2021
Chàng hỡi hai ta nghĩa đã cân, Thốt thề chẳng hổ với linh thần. Trước cùng làm bạn, ngờ lâu họp, Rày bỗng nghe ai, nỡ kíp phân! Mây nước, dạ chàng dầu bạc nghĩa, Cỏ hoa, lòng thiếp hãy còn xuân. Biết đâu đã dễ đâu hơn nữa, Mà trọng tân nhân phụ cự

Lưu Nguyễn nhớ tiên nữ (II)

Thơ   •   10.11.2021
Khách ở Thiên Thai cách mấy trùng, Ngày ngày hằng nhớ một niềm mong. Tưởng người ngọc nữ, thêm ngừng mặt, Nhớ nỗi Vu Sơn dễ chạnh lòng. Giục khách mưa sầu khoan lại nhặt, Trêu ai mây thảm lạt thì nồng. Nôn nao xuân lại bằng nguyền cũ, Ngỏ nỗi đôi phư

Ngưu Lang từ biệt Chức Nữ

Thơ   •   10.11.2021
Giã người cho khách lại Hà tây, Khôn xiết nguồn cơn nỗi đấy đây. Bát ngát mặt ngừng chan giọt ngọc, Dùng dằng chân ngại bước đường mây. Băng trông cầu Thước sầu thêm chất, Đoái thấy doành Ngân thảm dễ xây. Chầy kíp hẹn lành tin lại hợp, Thu sau càng

Tiên nữ tiễn Lưu Nguyễn (I)

Thơ   •   10.11.2021
Khách hỡi, chào ai kíp nỡ từ ? Xui người bát ngát phải nên đưa. Dùng dằng động ngọc vừa khi sớm, Dìu dặt làng hoa nhẫn khắc trưa. Đường khách dặm ngàn chàng hãy lại, Chăn loan nửa bức thiếp còn chờ. Non xanh nước biếc khi lành lạnh, Cũng chớ cho hay

Vương Tường thất sủng

Thơ   •   10.11.2021
Đền rồng tấc thước mấy lần mây, Tay áo năm canh nước mắt đầy. Xuân tới biếng nhìn hoa giấu mặt, Thu về thẹn thấy liễu chau mày. Trướng loan lạnh lẽo, hồn hồ ẩn, Cầu Thước bơ vơ chiếc nhạn bay. Thương nhỉ, hồng nhan nguyền khéo lỗi! Gác Đằng nhờ gió

Vịnh Tiêu Hà

Thơ   •   10.11.2021
Vả đao bút lại bấy nhiêu lâu, Xảy gặp cao hoàng, phúc bởi đâu? Mình cuốn đồ thư, hình thế biết, Tay cầm mực thước, trí mưu sâu. Vận lương trấn ải, no quân Hán, Phân đất phong hầu, đội tước châu. Chư tướng, nhường cho công đệ nhất, Tót danh tam kiệt,

Vịnh cảnh mùa đông (I)

Thơ   •   10.11.2021
Vận bốn mùa này đã có công, Đêm dài bởi một thuở ba đông. Song mai nguyệt tỏ thanh bằng nước, Cửa trúc sương xâm lạnh nữa đồng. Điểm tuyết nào non đầu chẳng bạc ? Hóng lò, có khách mặt thêm hồng. Một mai sang đến xuân đầm ấm, Đường tía xem hoa diễ

Hoạ vần bài Vịnh trăng (I)

Thơ   •   10.11.2021
Ló lên liền thấy khác thường tình, Có vẻ cao hòa có vẻ thanh. Lầu ngọc gương giơ soi mọi nước, Tán vàng xe gác ruổi năm canh. Thước kinh thuở dãi, dời cành lục, Kình sợ khi xuyên, chúi mặt xanh. Cung ấy khom khom nên cách ấy, Đành hay giúp sáng có th

Tiên nữ tiễn Lưu Nguyễn (II)

Thơ   •   10.11.2021
Khôn cấm lòng người (luống) thắm ưa, Đưa nhau mãi mãi mặt cùng đưa, Ngập ngừng miệng thốt châu sa lệ, Dìu dặt tay cầm nắng xế trưa. Cay đắng nỗi lòng đây luống chịu, Hiểm nghèo đường thế đấy tua ngừa. Kíp chầy lại thấy cùng nhau họp, Kẻo phụ

Con cóc

Thơ   •   10.11.2021
Chừ thuở nên thân tấm áo sồi, Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi. Nâng tay mấy phút, oai hùm nép, Tắc lưỡi đôi lần, chúng kiến lui. Mừng thấy đàn con ra chịu ấm, Dễ còn ả Tố kết làm đôi. Miếu đường có thuở vang lừng tiếng, Giúp được dân làng kẻo nắ

Lý Ông Trọng

Thơ   •   10.11.2021
Tầm cả tầm cao chỉn xuất quần, Khí thiêng quang nhạc dấu mười phần. Phò Nam, dẹp Bắc tài văn võ, Chắn nước, dời non sức quỉ thần, Vòi vọi Thuỵ Hương từ đã đặng, Nhơn nhơn Tư mã tiếng còn răn. Chàng Cao, gã Triệu chiêm bao rõ, Càng sợ An Nam có thánh

Buổi chiều trông ráng mây đỏ

Thơ   •   10.11.2021
Trước đông rỡ thoáng ngàn tiên, Ban tối cây lồng khuất cửa thiền. Lẻ tẻ đầu non người quẩy củi, Lao xao cuối bãi khách về thuyền. Mõ vang cốc cốc bên kia bến, Chuông đóng coong coong mái nọ chiền. Năm thức hồng vân, kìa đế sở, Thân sơ hương hỏa có nh

Khi bảng vàng đề tên

Thơ   •   10.11.2021
Thưa sách đan trì ai bén chiêu, Bảng vàng mừng đã thấy tên treo. Thấp cao vòi vọi chen hàng nhạn, Trên dưới làu làu hiện vẻ beo. Thoáng đến mấy tầng Bồng đảo lạ, Kẻ âu ba đợt Vũ môn nghèo. Bảng này chẳng phụ danh đồn dậy, Thấy hậu sinh còn nhiều kẻ

Hoạ vần bài Vịnh trăng (VII)

Thơ   •   10.11.2021
Gió gió mưa mưa nhẫn bạc tình, Vui trăng luyện một tiết trăng thanh. Soi trên dưới muôn muôn chốn, Suốt xưa nay mấy mấy canh. Người nhớ vua, nhìn sa đũa ngọc, Kẻ trông chồng, ngẫm ruổi mây xanh. Muôn thu ngàn kiếp lồng đến ấy, Tả hữu cho nhiều phụ bậ

Hoạ vần bài Vịnh trăng (X)

Thơ   •   10.11.2021
Cày cạy nàng nào khéo hữu tình, Mặt làu làu, vóc thỏ thanh thanh. Tròn tròn, méo méo in đòi thuở, Xuống xuống, lên lên suốt mấy canh. Tháng tháng liếc qua lầu đỏ đỏ, Đêm đêm liền tới trướng xanh xanh. Yêu yêu, dấu dấu đàn ai gẩy, Tính tính, tình tình

Lại vịnh trăng non

Thơ   •   10.11.2021
Ngọc đúc mười phân vuỗn chửa đầy, Nửa vầng rầng rậng mé phương tây. Bên loan Chức Nữ cài vòng lược, Dấu cũ Khai nguyên bấm móng tay. Cá ngỡ câu chìm xui bạn lánh, Chim ngờ cung bắn bảo nhau bay. Khi này tuy hãy còn rằng bé, Có thuở vầng ra thiên hạ h

Hoạ bài Tết Nguyên Đán

Thơ   •   10.11.2021
Âm dương hai khí mặc xoay vần, Nẻo quá thì đông, đến tiết xuân. Chân ngựa rong khi tuyết tĩnh, Hàng loan sắp thuở canh phân. Chín trùng chăm chắm ngôi hoàng cực, Năm phúc hây hây dưới thứ dân. Mây họp đền nam chầu chực sớm, Bên tai dường mảng tiếng

Vịnh Hạng Vũ

Thơ   •   10.11.2021
Học thông muôn địch dám ai đè! Nền bá vương xưa vẫn nhắm nhe. Mười một phen khua Tần lạnh gáy, Bảy mươi trận đã Hán tanh mè. Chẳng dùng Á phụ, tôi xương rắn, Nên phải Trần Bình, chước éo le. Chí sĩ nay dầu bàn bạc tới, Khá hờn, khá tiếc, khá mè he.

Cái ấm đất

Thơ   •   10.11.2021
Giống nảy đà nên rộng miệng thay, Tiệc hoa bạn ngọc dự ngồi bày. Danh thơm lừng lẫy hương còn nức, Lượng cả thung dung thế ít tày. Họp mặt nhiều người khi chép miệng, Đẹp lòng, nào kẻ chẳng nâng tay ? Hôm mai ninh nước vì nhà chúa, Một bữa cơm ăn chẳ

Cây cau

Thơ   •   10.11.2021
Ơn chúa vun trồng những thuở nao, Một năm là một nhẫn lên cao. Buồng đống cháu con bao xiết kể, Nhà đầy khách khứa hỏi han chào. Lưng hằng đai thắt mưa nhuần gội, Đầu đã tàn che nắng chẳng vào. Giữa trời chăm chắm nên rường cột, Gió cả dầu rung chẳng

Mẹ Vương Lăng tiễn sứ giả của Vương Lăng

Thơ   •   10.11.2021
Đình phô đằng đẵng ngựa dừng chân, Nỗi mẹ con, rày gửi sứ quân. Nhớ Hán, lòng còn đan một tấm, Thương Lăng, đầu đã bạc mười phân. Niềm trung hiếu, khôn hai vẹn, Hội công danh dễ mấy lần. Mệnh thiếp già này bao nỡ tiếc! Về thì khuyên nó nghĩa quân thầ

Hoạ vần bài Vịnh trăng (IX)

Thơ   •   10.11.2021
Mây mây móc móc nhẫn vô tình, Vằng vặc trăng càng tiết sạch thanh. Lo thuở thủy triều dâng thảy thảy. Tỏ khi điêu đẩu đếm canh canh. Bạc in con ruộng manh tơi cũ, Vàng lọn ông câu lá non xanh, Dại dột việc gì say bắt bóng, Khá cười khá tiếc gã Canh

Cây chuối

Thơ   •   10.11.2021
Thú nửa lâm tuyền, nửa thị thành, Vun trồng, toàn đội đức cao xanh. Dọc giơ gươm đẩu kinh cuồng khấu, Lá cuốn cờ xuân tượng thái bình. Trong sạch xưa sau ấy tiết, Móc mưa nhuần gội trong mình. Đành hay giống cố phù nước, Con cháu đời đời dõi đĩnh s

Cái diều giấy

Thơ   •   10.11.2021
Gió hiu hiu nhẹ cánh hồng, Nhang dọc dầu ta cao lướt không. Đỉnh núi phau phau mờ thức bạc, Giữa trời lồ lộ dãi vầng hồng. Chín lần lèo rủ, dầu thong thả, Bốn biển lòng vui phỉ ngóng trông. Có thuở liệng chơi ngoài lục hợp (?) Hư không, loà

Mây phủ cây tùng cối lúc tạnh

Thơ   •   10.11.2021
Non tạnh mây che khuất nhà, Thuở cây tùng cối toát ra. Thôi mọi đỉnh cành cành ngọc, Nở đòi ngàn đóa đóa hoa. Xem cõi dương, đâu đảo ấy ? Ngỡ vườn văn nẻo ấy là. Nhàn nào thông bích hằng về đỗ ? Nhiều chập dâng lên tiếng đạp ca.

Vịnh người đánh cá (II)

Thơ   •   10.11.2021
Nẻo đầu kể bốn thú nhàn cư, Song viết ai bằng song viết ngư ? Tám bức giang sơn thu vẹn tám, Tư mùa phong cảnh đủ hòa tư. Dong thuyền đợi tiên Tô tử, Nêm chèo ca khúc Sở từ. Nọ nọ Bàn Khê công nghiệp cả. Xuân thu lần kể tám mươi dư.

Vịnh Trương Lương

Thơ   •   10.11.2021
Phò Hán công nên, liền liện ngơi, Xích Tùng tiên tử, náu tìm chơi. Đền phong khúm núm còn từ bệ, Thành Cốc mơ màng đã tới nơi. Thuyền tếch Ngũ Hồ đênh một lá, Công hơn tam kiệt nhẫn đôi người. Thế gian đâu có thần tiên nhỉ ? Ơ hơ! Ông này sa chước ng

Canh bốn

Thơ   •   10.11.2021
Kế lậu canh mấy khắc dư, Đêm dài đằng đẵng mới sang tư. Gió lay chồi ải khua chim thức, Nước chảy trăng tà giục sóng đưa. Vạc thẩn thơ tìm nội quạnh, Trời lác đác vẻ sao thưa. Một bầu thế giới hây hây lạ, Mấy kẻ chung tình đã thức chưa?

Chức Nữ nhớ Ngưu Lang (II)

Thơ   •   10.11.2021
Sảy tưởng người lành vẩn hạt châu, Biết chăng, chăng biết hỡi chàng Ngưu? Thơ bày chữ gấm ngàn hàng thảm, Cửi mắc thoi vàng mấy đoạn sầu. Cung quế cao xanh đượm khói, Dòng Ngân tĩnh biếc in thu. Ước đem lòng đến cùng tiên thốt, Sớm muộn tham hoa bạch

Canh hai (II)

Thơ   •   10.11.2021
Nước cạn đồng hồ canh chuyển hai, Đêm dài đằng đẵng tựa năm dài. Vang ngõ nọ chày cao thấp, Nhộn lầu kia địch bẻ bai. Trăng sáng ba ngàn thế giới, Gió đưa mấy xóm lâu đài. Sẩy nằm khi ấy còn mường tượng, Văng vẳng thiều quân tiếng ở tai.

Canh năm (II)

Thơ   •   10.11.2021
Đến năm canh ban trống năm. Buồng lan đèn hạnh đã lâm dâm. Mơ màng bóng nguyệt kề song xế, Thánh thót chày thu cách nước đâm. Người thức lầu hồng còn bịn rịn, Ngựa quen đường tía đã lăm chăm. Chín trùng khi ấy ban chầu đã, Vô sự dầu ta mặc sức nằm.

Người nấu bếp

Thơ   •   10.11.2021
Đương cơn lửa cháy thấy ai nào Hoả đỉnh điều canh có một tao Gắng sức phò vua cho ấm nước Ra tay dẹp bể để yên rào Trên đầu phất phới tàn bay rợp Trước mặt nguy nga khói toả cao Thu cuốn bốn bên về một mối Cha con đều hưởng lộc Thiên tà

Canh một (I)

Thơ   •   10.11.2021
Chập tối trời vừa mọc đẩu tinh, Ban hôm trống một mới sơ canh, Đầu nhà khói tỏa lồng sương bạc, Sườn núi chim về ẩn lá xanh. Tuần điếm kìa làng khua mõ cá, Dâng hương, nọ kẻ nện chày kình. Nhà nam, nhà bắc đều no mặt, Lừng lẫy róng ca khúc thái bình.

Chợ cạnh núi lúc tạnh mù

Thơ   •   10.11.2021
Non mở bình phong tám bức vây, Chợ quê ngày tạnh, lục in cây. Cá tươi xâu liễu người về gấp, Rượu chín nồng hoa khách ở chầy. Điếm nọ cờ còn quấn gió, Lều kia rèm đã cuốn mây. Ông nào thổi địch thanh thơi tá ? Cưỡi hạc bay về ngàn núi Tây.

Lưu Nguyễn gặp tiên trong động

Thơ   •   10.11.2021
Khói tỏa xanh xanh bóng tịch dương, Cỏ hoa chào khách khéo đưa đường. Mây che cửa chim bay hết, Suối thay cầm tiếng nhặt xoang. Sông có bích đào non nước dẫy, Cõi nhiều hồng hạnh tháng ngày trường. Cánh hoa dầu chẳng người tiên rước, Chó sủa âu là hẳ

Giới nho sĩ

Thơ   •   10.11.2021
Kềnh kềnh áo bá lẽn khăn sa, Trường ốc hôm mai để lễ nhà. Lạnh lẽo đường thu như án tuyết, Nắng sương mấy phút lọn hài hoa. Tài cao hơn nữa Công Tôn sách, Sự thịnh còn truyền Ninh Thích ca. Bút mực chẳng quên bề chí lũ, Lộc cao sao khéo lỡ người ta.

Qua đèo Ngang

Thơ   •   10.11.2021
Bãi thẳm ngàn xa, cảnh vắng teo, Đèo Ngang lợi bể, nước trong veo. Thà là cúi xuống, cây đòi sụt, Xô xát trông lên, sóng muốn trèo. Lảnh chảnh đầu mầm, chim vững tổ, Lanh chanh cuối vũng cá ngong triều. Cuộc cờ kim cổ chừng bao nả, Non nước trông qua

Bờn trăng

Thơ   •   10.11.2021
Thế giới đông nên mọc một vầy, Lòng tham thanh lạ hết cây. Sông Ngân Hán phẳng đi về lẩn, Cung Quảng Hàn cao ăn ở chầy. Cấm, cũng nép sau thu giá, Ngăn, thì bay trước rẽ mây, Bốn mùa cùng rạng, thu thêm nhẵn, Dường ấy âu là có ý tây.

Vương Tường tự vẫn

Thơ   •   10.11.2021
Ngậm giận tanh hôi chốn bất mao, Suối vàng nên lụy khách thơ đào, Quanh rường một bức khăn là rủ, Vừng nguyệt ba canh bóng quế cao. Gương đã lạnh lùng mờ cẩm trướng, Châu còn thánh thót quẹn lá bào. Khá thương tiết ngọc gan vàng ấy, Tôi Hán ngồi xem,

Tiên nữ tiễn Lưu Nguyễn (IV)

Thơ   •   10.11.2021
Trách thay tạo hóa phụ duyên ưa, Nỡ khiến chàng về thiếp phải đưa. Lòng nọ hãy còn sầu hãy giục, Chân kia càng nhẹ bước càng thưa. Nước non thiếp chẳng quên niềm cũ, Ân ái chàng tua nhớ nghĩa xưa. Một khúc Ly tao buồn biếng đọc, Đôi hàng giọt ngọc đư

Núi goá

Thơ   •   10.11.2021
Hòn đá ai đem đặt giữa đồng, Mĩ miều thiếu nữ lựa người trông. Da dồi phấn tuyết nhuần nhan sắc, Đầu gội mưa xuân sạch bụi hồng. Ngày ngắm gương ô đáy nước, Đêm cài lược thỏ trên không. Tới nay tuổi đã bao nhiêu tá ? Chành chạnh bền gan chửa lấy chồ

Canh hai (I)

Thơ   •   10.11.2021
Vắng gần xa, khách vãng lai, Khúc rồng canh đã chuyển sang hai. Lầu treo cung nguyệt, người êm giấc, Đường quạnh nhà thôn, cửa chặt cài. Cảnh vật chòm chòm bay lửa đóm, Cỏ hoa gốc gốc đượm hương trời. Có người đắc thú trong khi ấy, Đoản địch còn xong

Nhớ người xa

Thơ   •   10.11.2021
Sông trong, trăng lạt, vẻ sao thưa, Gác cũ rêu đầy lấp dấu thơ. Mưa tạnh, hoa sầu, chiều lạt mạt, Xuân về én thảm tiếng u ơ. Đèn tàn ruột thắt, hồn xơ xác, Gối chiếc châu dầm giấc ngẩn ngơ. Lá thắm thơ bày, mong bắt chước, Nước xuôi, thơ ngược biết b

Giới thiền tăng

Thơ   •   10.11.2021
Một bình, một bát, một cà sa, Náu ở chiền già làm cửa nhà. Kinh giã ngọc lâu hương lọn triện, Định lui thiền viện bóng xoay hoa. Thân tâm rửa sạch quê hà hữu, Giới hạnh vâng đòi giáo Thích Già. Nói những thiên đường cùng địa ngục, Pháp sao chẳng độ đ

Miếu vợ chàng Trương

Thơ   •   10.11.2021
Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương, Miếu ai như miếu vợ chàng Trương. Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ, Cung nước chi cho luỵ đến nàng. Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt, Giải oan chi lọ mấy đàn tràng? Qua đây mới biết nguồn cơn ấy, Khá trách chàng Tr

Cái xe điếu

Thơ   •   10.11.2021
Vốn ở lâu đài đã bấy nay, Khi lên dễ khiến thế gian say. Lưng in chính trực mười phân thẳng, Dạ vẫn hư linh một tiết ngay. Động sóng, tuôn mây khi chán miệng, Nghiêng trời, lệch đất thuở buông tay. Dưới từ nội lục trên đền đỏ, Ai chẳng quen hơi mến đ

Chức Nữ nhớ Ngưu Lang (I)

Thơ   •   10.11.2021
Một mình vò võ chốn Hà đông, Nhớ khách đầy vơi luống những trông... Gối ngọc giấc màng êm lưới đệm, Thoi vàng tay ngại mắc trên không. Đêm thanh lần tưởng hai phương nguyệt, Ngày vắng buồn xem một dải sông. Gẫm thấy một thu là một họp, Còn hơn kẻ chự

Kênh Trầm

Thơ   •   10.11.2021
Đồn rằng huyện Ngọc có kênh Trầm, Tuy hẹp le vui hết mấy rằm. Gò nổi xương trâu rêu lún phún, Bãi lè lưỡi bạng bọt lăm tăm. Chan chan thuyền khách sào chưa nhổ, Sịch sịch chài ai cọc hãy cằm. Có kẻ kéo khan năm bảy lúc, Chờ cho thấy nước bỏ đêm nằm.

Vịnh cảnh mùa xuân (I)

Thơ   •   10.11.2021
Một khí trời đắp đổi vần, Ba tháng đông lại ba tháng xuân. Sinh thành, mọi vật đều tươi tốt, Đầm ấm, nào ai chẳng đượm nhuần ? Tượng mở thái hòa, Nghiêu vỗ trị, Ơn nhiều chẩn thải Hán nuôi dân. Đài xuân bốn bể đều vây họp, "Tuổi tám ngàn",

Tiếng chuông chiều trong chùa đầy mây khói

Thơ   •   10.11.2021
Khói lục vây thành, thế giới tiên, Chuông đâu ban tối tỏ cơ thiền. Pha sương một tiếng người cài cửa, Nện nguyệt ba canh khách nổi thuyền, Ngước mặt xem, ngờ những nước, Cong tai mảng, mới hay chiền. Ít nhiều nhân ngã chưng khi ấy, Giũ lâng lâng hế

Núi Song Ngư

Thơ   •   10.11.2021
Sơn thủy so xem chốn hữu tình, Chưng đây mừng thấy lạ hòa thanh. Dăng ngang biển, chờn vờn lớn, Cao chọc trời, ngần ngật xanh. Muôn kiếp chầu về đền Bắc cực, Ngàn thu chống khỏe cõi Nam minh. Đời đời trụ thạch quyền trong nước, Thiên hạ nào ai chẳng

Trời thu trăng sáng

Thơ   •   10.11.2021
Bốn mùa no, bốn, thiếu mùa nào, Trăng một thu chầy, vặc vặc cao. Hây hẩy gió vàng thông ải nhạn, Làu làu bóng ngọc suốt nhà giao. Dãi dầm chén khách kề hiên cúc, Nhẹ chở thuyền ai ngược động đào. Có kẻ lòng còn ưu ái cũ, Ngồi năm trông nhẫn, xế lầu s

Vương Tường tự than thân

Thơ   •   10.11.2021
Liễu mềm khôn cưỡng trận đông phong, Than thở nào ai kẻ thấu cùng ? Ngậm giận lòng lang cưu thói dữ, Lại thương phận bạc lụy quần hồng. Sầu xuân chẳng quản hoa gầy guộc, Đeo tuyết cho nên nguyệt lạnh lùng. Thân gái bọt bèo bao xiết kể, Tiếc chăng ơ

Tết Nguyên Đán

Thơ   •   10.11.2021
Cơ mầu thợ hoá bốn mùa vần, Đông cuối, ba mươi, mồng một xuân. Rờ rỡ cửa vàng, ngày Thuấn rạng, Làu làu phiến ngọc, lịch Nghiêu phân. Cao vòi vọi ngôi hoàng cực, Khắp lâng lâng phúc thứ dân. Tôi mọn dự đòi hàng ngọc duẩn, Non cao, kính chúc tuổi minh

Cái quạt

Thơ   •   10.11.2021
Thác ở trong tay tạo hoá quyền, Một mình thờ chúa thuở hè thiên. Lưng mềm yểu điệu mười lăm tuổi, Má điểm yên chi bảy tám khuyên. Dặm liễu đã từng che mặt ngọc, Đường hoa có thuở vẫy người tiên. Tới thu lại thấy yêu đương nữa, Mựa chớ đàn chi thiếp b

Lại vịnh cảnh mùa xuân

Thơ   •   10.11.2021
Từ thuở Đông hoàng chịu lấy quyền, Thiều quang làm cảnh rạng xuân thiên. Đường hoa chấp chới tin ong dạo, Dặm liễu thung thăng sứ điệp truyền. Ả Nguỵ, nàng Diêu khoe đẹp đẽ, Người thơ, khách rượu rộn mời khuyên. Nam nhi kịp thuở trong khi ấy, Diễu ng

Tiên nữ tiễn Lưu Nguyễn (III)

Thơ   •   10.11.2021
Dìu dặt xuân tiên sớm nhẫn trưa, Cùng nhau cặn kẽ mọi lời đưa. Sự ta chớ hở bề tơ tóc, Đường thế tua thìn nỗi gió mưa. Vàng đá đây còn bền nghĩa cũ, Thảo ngay đấy hãy vẹn niềm xưa. Nôn nao duyên lại cùng song phượng, Ngõ kẻo chăn loan nữa đợi chờ!

Rau cải

Thơ   •   10.11.2021
Nhà ta có cải vãi nơi nương, Đất phúc sinh thành của lạ dường! Áo đã tương xanh, tương thức lục, Đầu chăng đội bạc, đội hoa vàng! Ba đông xuân sắc nhân chưng tuyết, Một tiết âm nhu chẳng quản sương. Bàn bạc chua cay, đòi miệng thế, Miễn là đỡ được th

Người bù nhìn (II)

Thơ   •   10.11.2021
Quyền trọng ra uy trấn cõi bờ, Vốn lòng vì nước há vì dưa. Xét soi trước mặt đôi vừng ngọc, Vùng vẫy trên tay một lá cờ. Dẹp giống chim muông xa phải lánh, Dể quân cầy cuốc gọi không thưa. Mặc ai nhảy nhót đường danh lợi, Ơn nước đầm đìa hạt móc mưa.

Chó đá (I)

Thơ   •   10.11.2021
Quyền trọng ơn trên trấn cõi ngoài, Cửa nghiêm chem chẻm một mình ngồi. Quản bao xương tuyết nào chi kể, Khéo giữ cao lương cũng chẳng nài. Mặc khách thị phi giương tráo mắt, Những lời trần tục biếng vào tai. Một lòng thờ chúa, nghìn cân nặng, Bền vữ

Lại vịnh Hàn Tín

Thơ   •   10.11.2021
Thấy rồng năm thức nặng mình phù, Nanh vuốt ra tài, mấy trượng phu ? Mũi bác chọc đông, Tề lạnh khói, Ngọn cờ trỏ bắc, Triệu bay lò. Nghìn vàng tấc tấc đền ơn mụ, Một gánh quằn quằn trả nợ vua. Hơn nữa, Ngũ Hồ có ai cấm ? "Cung tàng" lẩn th

Trúc quân tử

Thơ   •   10.11.2021
Giống lạ Giang Lăng đã được dành. Một mai năng chiếm được cao danh. Lòng không, chẳng vả phô niềm tục, Khí cứng hằng thìn một tiết thanh. Sớm còn đeo chim phượng đỏ, Khuya chờ mọc cháu rồng xanh. Kham chi thế gọi là quân tử. Sương tuyết nào hề bén mì

Hoạ bài “Người chăn trâu”

Thơ   •   10.11.2021
Ngày còn sớm, chửa xay om, Gã mục dè chân đã tới nom. Bạn xúm nội bằng, cười khặc khặc, Trâu về ngõ hẹp, cỡi khom khom. Tiếng ca Nịnh Thích kề tai ngóng, Khúc địch Hoàn Y nghển cổ nhòm. Còn có nơi nào vui thú nữa: Gái trai cùng họp một đầu mom.

Cây trúc

Thơ   •   10.11.2021
Kì Viên dưỡng dục nẻo sơ đông, Dạn mặt đầu canh thuở gió rung. Giá chẳng xâm, hay tiết cứng, Trăng những tỏ, biết lòng không. Đài Vương tử vắng, nhàn xoang phượng, Chầm Cát Pha thanh dễ hóa rồng. Thiên hạ tri âm, hay có mấy ? Mai thì ngự sử, đại ph

Chùa núi Phật Tích

Thơ   •   10.11.2021
Ngước mặt trông lên Phật Tích san, Non cao vòi vọi khách phàm gian. Chim bay rặng liễu dường thoi dệt, Nước chảy ao sen tựa suối đàn. Thông bảy tám hàng che kiểu tán, Mây năm ba thức phủ thay màn. Thi nhân rằng có đâu hơn nữa, Cho khách xin làm một b

Dệt cửi

Thơ   •   10.11.2021
Thấy dân rét mướt, nghĩ mà thương, Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường. Tay ngọc lần đưa thoi nhật nguyệt, Gót vàng dận dạn máy âm dương.

Người ăn mày

Thơ   •   10.11.2021
Chẳng phải ăn đong, chẳng phải vay, Khắp hoà thiên hạ đến ăn mày. Hạt châu, chúa cất trao ngang mặt, Bệ ngọc, tôi từng đứng lượm tay. Nam bắc đông tây đều tới cửa, Trẻ già lớn bé cũng xưng thầy. Đến đâu dẹp hết loài muông cẩu, Thu cả kiền khôn một tú

Hoạ bài Người hái củi

Thơ   •   10.11.2021
Đầu non đã tạnh khói còn om, Mấy gã tiều phu đã sớm nom. Nửa bó yên hà mang đủng đỉnh, Đôi bên phong nguyệt quảy lom khom. Trời Nghiêu, ngày Thuấn mình ăn ở, Đỉnh Thạch non Thai mặt ngước nhòm. Ước thấy Mãi Thần mà thử hỏi: "Rằng xưa gặp chúa mé

Bơi thuyền ở Trà Thượng

Thơ   •   10.11.2021
Nhè nhẹ thuyền ai bến liễu dời, Lam am nghìn dặm nhuộm da trời. Toán ngày con nước, chèo lan gác, Đối bữa cơm chay, chén cúc phơi. Khói tĩnh đan hà màu tía rạng, Mây lồng bích thụ thức xanh hơi. Giang san nơi chốn, chơi đòi chốn, Sập cửa mui nằm má

Chùa Pháp Vũ

Thơ   •   10.11.2021
Vô biên công đức dậy lừng danh, Phơi ngỏ hồ thiên cảnh tú thanh. Ngọc thỏ một vầng in địa trục, Bàn long đòi thế mở đồ tranh. Cầm thông gió quyến khi tuyên pháp, Hoa báu mưa rây thuở diễn kinh. Tiết gặp thăng bình nhân thưởng ngoạn, Tuệ quang thay, đ

Cảnh buổi sáng ở Động Lâm

Thơ   •   10.11.2021
Trước đông tang tảng cảnh hầu ngày, Bến Động Lâm kia cũng gấm tày. Cửa có non xanh xem dễ thấy, Song nhiều mai bạc lựa sơ hay. Cá ăn mặt nước con vờn, nhảy, Chim bắn đầu non cái đỗ, bay. Khi ấy bút thần làm biếng chép, Giang sơn góp một nghiêng tay.

Thành cổ

Thơ   •   10.11.2021
Hoa cỏ đành xưa, gốc gốc già, Biết bao thu trải mấy hè qua, Cáo kêu eo éo ban trời tối, Quỉ khóc đìu hiu trận nguyệt tà, Công nghiệp ngày xưa hòn đá dựng, Bá vương nền cũ hạt mưa sa. Khen ai gây đặng thành đô ấy, Ấy của tiên vương, của quốc gia.

Trăng (I)

Thơ   •   10.11.2021
Khuôn cả treo lên khéo hữu tình, Hoà cao, hòa sáng vuỗn hoà thanh. Gương giơ vằng vặc soi muôn dặm, Bóng tỏ làu làu suốt mấy canh. Ông nọ vì đâu xe chỉ đỏ, Nàng nào chơi đấy rẽ mây xanh. Ngẫm xem khí tượng hình dung ấy, Chợt ló ra thì lạt chúng tinh.

Cây mai

Thơ   •   10.11.2021
Trội cành nam chiếm một chồi, Tin xuân mãi mãi điểm cây mai. Tinh thần sáng, thuở trăng tĩnh, Cốt cách đông khi gió thôi. Tiết cứng trượng phu thông ấy bạn, Nết trong quân tử, trúc là đôi, Nhà truyền thanh bạch dăng từng khối, Phỉ xứng danh thơm đệ

Cây đánh đu

Thơ   •   10.11.2021
Bốn cột lang, nha cắm để chồng, Ả thì đánh cái, ả còn ngong. Tế hậu thổ, khom khom cật, Vái hoàng thiên, ngửa ngửa lòng. Tám bức quần hồng bay phới phới, Hai hàng chân ngọc đứng song song. Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy, Nhổ cột đem về để lỗ không.

Hoạ vần bài Vịnh trăng (II)

Thơ   •   10.11.2021
Suốt nhân gian, khắp mọi tình, Cao vòi vọi, sáng thanh thanh. Đúc muôn tượng lại và phần bóng, Thu chín châu về một khắc canh. Nhiều thuở rây vàng tương gác đỏ, Ghê phen nhả ngọc thếp cung xanh. Càng cao càng sáng trên ngôi ấy, Càng tỏ huân danh đấng

Lãng ngâm

Thơ   •   10.11.2021
Tề Khương, Tống Tử gạ nào xong! Chàng lại hương quan, đoái thiếp cùng! Quanh quất mối sầu khơi mấy dặm, Sụt sùi giọt ngọc rã đôi dòng. Khách về dễ khiến ngừng khung mặt, Người ở càng thêm đứt mối lòng. Mai dịch may sao tin kíp ruổi. Kẻo lòng người th

Sông Bạch Đằng

Thơ   •   10.11.2021
Lẻo lẻo doành xanh nước tựa dầu, Trăm ngòi, ngàn lạch chảy về chầu. Rửa không thay thảy thằng Ngô dại, Dịu một lâng lâng khách Việt hầu. Nọ đỉnh Thái Sơn rành rạnh đó, Nào hôn Ô Mã lạc loài đâu ? Bốn phương phẳng lặng kình bằng thóc. Thong thả dầu ta

Vịnh người đánh cá (I)

Thơ   •   10.11.2021
Pha lê muôn khảm thức lom om, Xảy thấy thằng chài đứng đấy nom. Manh áo quàng, mang lụp xụp, Quai chèo xách, đứng lom khom. Ngư hà vẫy đuôi chúi ẩn, Âu lộ hay cơ ngó nhòm. Có kẻ làm ơn nheo nhẻo mách; Kia kìa Phạm Lãi mái kia mom.

Ngã ba sông

Thơ   •   10.11.2021
Dòng tuôn ba ngả lạ dường bao! Bát ngát đòi phen mặt bích đào. Phá phá ngàn kia lùa ngột ngột, Phè phè bãi nọ rửa tanh tao. Cá ăn mặt nước tan vầng thỏ, Triều rẽ đầu non lụt bóng dao. Xẩy thấy một thuyền trong thuở ấy, Dường như ngư phủ lạc nguồn Đà

Lại vịnh cảnh mùa đông

Thơ   •   10.11.2021
Từ thuở Huyền minh chịu lệnh đông, Vù vù đòi chốn trận kim phong. Canh chầy ngọc lậu trong bằng tuyết, Đêm lọt lưu tô lạnh nữa đồng. Thượng uyển cúc tàn năm bảy lá, La Phù mai chiếng một hai bông. Bốn mùa mựa chửa lầu canh hết. Thang Vũ đều làm phả

Tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn

Thơ   •   10.11.2021
Chẳng còn nhớ đến khúc Nghê thường, Một phút chiêm bao một phút thương. Thuở động ngày chầy xuân vắng vẻ. khi người đường cách nguyệt mơ màng, Đất nhiều cỏ ngọc ngàn xanh biếc, Nước có hoa đào sóng ngát hương. Gió thổi đèn tàn thêm lạnh lẽo, Thân này

Lại vịnh Tô Vũ

Thơ   •   10.11.2021
Cờ sứ bền cầm một cán không, Mười năm chẳng trễ tiết cô trung. Đất Hồ sương tuyết gầy mình hạc, Đền Hán ngày đêm nhớ mặt rồng. Biển bắc xuân chầy, dê chẳng nghén, Trời nam thu thẳm, nhạn khôn thông. Kì lân tượng vẽ còn rành rạnh Tôi Hán nào ai dám ví

Hòn đá tảng giặt vải mùa rét

Thơ   •   10.11.2021
Đủng đỉnh nhà ai bên nọ đường, Đêm đông chày nện nhẫn sơ sương. Vang mấy chặp đưa cao thấp, Dội đòi khi tiếng đỉnh đang. Dặng dõi chiêm bao người ải tuyết, Tỏ tường tâm sự khách buồng hương. Trượng phu ắt có gan lòng sắt, Chưa dễ hàn châm ép khiến th

Màn hoè

Thơ   •   10.11.2021
Trời hè đằng đẵng thuở ngày chầy, Rợp rợp màn hòe bóng mới xoay. Chói chói hoa vàng đưa gió, Đùn đùn tàn lục giương mây. Trong nhà tể tướng: sum họp, Ngoài cửa công hầu: chật vây. Thêm có cầm ve dặng dõi, Khiến người hóng mát động niềm tây.

Núi Nam Công

Thơ   •   10.11.2021
Đá ấy xương, cỏ ấy lông, Trời Nam đứng giữa, gọi Nam công. Múa vai bóng rợp dân muôn họ, Giương cánh nâng phò nước chín trùng. Lóng lánh kiền khôn thế giới, Xênh xang xuân hạ thu đông. Đành hay là giống trời sinh có, Ngỏng cổ chầu về đất tổ long.