Hoạ vần bài Vịnh trăng (VII)

Thơ   •   Thứ tư, 10/11/2021, 16:44 PM

Gió gió mưa mưa nhẫn bạc tình, Vui trăng luyện một tiết trăng thanh. Soi trên dưới muôn muôn chốn, Suốt xưa nay mấy mấy canh. Người nhớ vua, nhìn sa đũa ngọc, Kẻ trông chồng, ngẫm ruổi mây xanh. Muôn thu ngàn kiếp lồng đến ấy, Tả hữu cho nhiều phụ bậ

Nội dung bài thơ: Hoạ vần bài Vịnh trăng (VII)

Gió gió mưa mưa nhẫn bạc tình,

Vui trăng luyện một tiết trăng thanh.

Soi trên dưới muôn muôn chốn,

Suốt xưa nay mấy mấy canh.

Người nhớ vua, nhìn sa đũa ngọc,

Kẻ trông chồng, ngẫm ruổi mây xanh.

Muôn thu ngàn kiếp lồng đến ấy,

Tả hữu cho nhiều phụ bật tinh.


Bài thơ Hoạ vần bài Vịnh trăng (VII) của tác giả Nhà thơ Lê Thánh Tông - 黎聖宗, Lê Tư Thành, 黎思誠, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.

Nhà thơ Lê Thánh Tông - 黎聖宗, Lê Tư Thành, 黎思誠

Nghệ danh: Lê Thánh Tông

Tên thật: Lê Thánh Tông 黎聖宗, Lê Tư Thành, 黎思誠

Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Lê Thánh Tông - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác

icon Tác giả Lê Thánh Tông, Thơ Lê Thánh Tông, Tập thơ chữ Nôm

Tổng hợp

Cùng tập thơ: Thơ chữ Nôm

Vịnh người hái củi (II)

Thơ   •   10.11.2021
Một rìu, một búa của hôm chiều, Song viết ai bằng song viết tiều ? Lần nguyệt pha sương, ngày tháng Thuấn, Tìm thông, hỏi quế, nước non Nghiêu. Mây che đầu, ngàn tầng tán, Suối vang tai, chín chặp thiều. Khủng khỉnh ăn nằm đời thánh chúa, Làm chi lầ

Thợ cạo

Thơ   •   10.11.2021
Mở mặt trần gian ức vạn người Ðông tây nam bắc phải làm tôi. Vài thanh gươm bạc xông trăm trận, Mấy chiếc qua vàng đóng một nơi. Kẻ trọng tam đồ hay bá gáy, Người cao nhất phẩm cũng cầm tai. Trăm năm tiêu sẵn kho vô tận, Xếp túi kiền khôn chỉ việc ng

Vịnh cảnh mùa xuân (I)

Thơ   •   10.11.2021
Một khí trời đắp đổi vần, Ba tháng đông lại ba tháng xuân. Sinh thành, mọi vật đều tươi tốt, Đầm ấm, nào ai chẳng đượm nhuần ? Tượng mở thái hòa, Nghiêu vỗ trị, Ơn nhiều chẩn thải Hán nuôi dân. Đài xuân bốn bể đều vây họp, "Tuổi tám ngàn",

Lưu Nguyễn nhớ tiên nữ (I)

Thơ   •   10.11.2021
Động ngọc rành rành tượng dấu phong, Một phen xảy nhớ, một phen trông. Đợi chờ hằng tưởng người cung Lãng, Thức nhắp nào khuây khách đỉnh Bồng. Non nước lạ nghìn nhàn cá diễn, Phượng loan đường một gối chăn chung. Ước chi lan huệ vầy làm một, Lại thấ

Cây chuối

Thơ   •   10.11.2021
Thú nửa lâm tuyền, nửa thị thành, Vun trồng, toàn đội đức cao xanh. Dọc giơ gươm đẩu kinh cuồng khấu, Lá cuốn cờ xuân tượng thái bình. Trong sạch xưa sau ấy tiết, Móc mưa nhuần gội trong mình. Đành hay giống cố phù nước, Con cháu đời đời dõi đĩnh s

Cái ấm đất

Thơ   •   10.11.2021
Giống nảy đà nên rộng miệng thay, Tiệc hoa bạn ngọc dự ngồi bày. Danh thơm lừng lẫy hương còn nức, Lượng cả thung dung thế ít tày. Họp mặt nhiều người khi chép miệng, Đẹp lòng, nào kẻ chẳng nâng tay ? Hôm mai ninh nước vì nhà chúa, Một bữa cơm ăn chẳ

Qua đèo Ngang

Thơ   •   10.11.2021
Bãi thẳm ngàn xa, cảnh vắng teo, Đèo Ngang lợi bể, nước trong veo. Thà là cúi xuống, cây đòi sụt, Xô xát trông lên, sóng muốn trèo. Lảnh chảnh đầu mầm, chim vững tổ, Lanh chanh cuối vũng cá ngong triều. Cuộc cờ kim cổ chừng bao nả, Non nước trông qua

Ngưu Lang từ biệt Chức Nữ

Thơ   •   10.11.2021
Giã người cho khách lại Hà tây, Khôn xiết nguồn cơn nỗi đấy đây. Bát ngát mặt ngừng chan giọt ngọc, Dùng dằng chân ngại bước đường mây. Băng trông cầu Thước sầu thêm chất, Đoái thấy doành Ngân thảm dễ xây. Chầy kíp hẹn lành tin lại hợp, Thu sau càng

Vịnh cảnh mùa thu (I)

Thơ   •   10.11.2021
Một nhạn hòa truyền lệnh Nhục thu, Song thưa ngần ngật lọt hơi thu. Vàng phô rãnh cúc khi sương rụng, Bạc điểm ngàn lau thuở tuyết mù. Đèn sách trên yên nghề cử tử, Can qua ngoài ải việc chinh phu. Thảnh thơi đêm có vầng trăng giãi, Tỏ làu làu khắp c

Tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn

Thơ   •   10.11.2021
Chẳng còn nhớ đến khúc Nghê thường, Một phút chiêm bao một phút thương. Thuở động ngày chầy xuân vắng vẻ. khi người đường cách nguyệt mơ màng, Đất nhiều cỏ ngọc ngàn xanh biếc, Nước có hoa đào sóng ngát hương. Gió thổi đèn tàn thêm lạnh lẽo, Thân này

Mấy mầm liễu đỏ một thuyền chài

Thơ   •   10.11.2021
Hai ba ngọn, một điểm mưa, Một chiếc thuyền chài diễn nước đưa. Khuất cụm câu buông cần nhè nhẹ. Kề hoa mui ngỏ cửa thưa thưa. Với then phong nguyệt mùa mùa đủ, No miếng ngư hà bưa bữa thừa. Mựa nói giang hồ yên mỗ thú, Chạnh lòng ngụy khuyết tiếng c

Ngã ba sông

Thơ   •   10.11.2021
Dòng tuôn ba ngả lạ dường bao! Bát ngát đòi phen mặt bích đào. Phá phá ngàn kia lùa ngột ngột, Phè phè bãi nọ rửa tanh tao. Cá ăn mặt nước tan vầng thỏ, Triều rẽ đầu non lụt bóng dao. Xẩy thấy một thuyền trong thuở ấy, Dường như ngư phủ lạc nguồn Đà

Vịnh bài Hòn đá tảng giặt vải mùa rét

Thơ   •   10.11.2021
Đằng đẵng canh chày tuyết nhiễm xâm, Đỉnh đang đâu dội, tiếng hàn châm ? Chày kình vưỡn ngỡ thằng đồng nện, Cối thỏ dường đà ả quế đâm. Thục nữ tơi bời vui cửi dệt, Tao nhân ánh ỏi hứng thơ ngâm. Vẳng nghe sẽ chạnh niềm ưu ái, Màng tượng dường bằng p

Lại vịnh cảnh mùa thu

Thơ   •   10.11.2021
Lác đác ngô đồng mấy lá bay, Tin thu hiu hắt lọt hơi may. Ngàn kia cách nước xo le địch, Mái nọ bên tường đủng đỉnh chày. Lau chổng bãi nam ngàn dặm rợp, Nhạn về, ải bắc mấy hàng bày. Quí Ưng, Tống Ngọc dường bao nữa, Khi ấy nhiều người cám cảnh thay

Hoạ vần bài Vịnh trăng (V)

Thơ   •   10.11.2021
Nào chốn nào là chẳng có tình ? Một vầng giơ sáng bốn mùa thang. Giang sơn thành thị soi muôn dặm, THảo mộc côn trùng rỡ mấy canh. Tủi bụng cô thần đầu đốm bạc, Tỏ niềm khí phụ tuổi qua xanh. Dầu hòa lẵng đẵng làm cao nữa, Chẳng đoái nhau cùng một tỉ

Hoạ vần bài Vịnh trăng (IX)

Thơ   •   10.11.2021
Mây mây móc móc nhẫn vô tình, Vằng vặc trăng càng tiết sạch thanh. Lo thuở thủy triều dâng thảy thảy. Tỏ khi điêu đẩu đếm canh canh. Bạc in con ruộng manh tơi cũ, Vàng lọn ông câu lá non xanh, Dại dột việc gì say bắt bóng, Khá cười khá tiếc gã Canh

Lại vịnh cảnh mùa xuân

Thơ   •   10.11.2021
Từ thuở Đông hoàng chịu lấy quyền, Thiều quang làm cảnh rạng xuân thiên. Đường hoa chấp chới tin ong dạo, Dặm liễu thung thăng sứ điệp truyền. Ả Nguỵ, nàng Diêu khoe đẹp đẽ, Người thơ, khách rượu rộn mời khuyên. Nam nhi kịp thuở trong khi ấy, Diễu ng

Trăng thu dãi doanh liễu

Thơ   •   10.11.2021
Tám cõi trời thanh sạch khói mù, Liễu doanh chưng thuở dãi trăng thu. Kim phong hây hẩy xuyên mành trúc, Ngọc thỏ làu làu ánh ải du. Tiệc rượu nhắp sôi lầu tướng súy, Lòng quê thêm tỏ mặt chinh phu. Nôn nao lại thấy phòng thu vắng, Cùng đượm xuân ph

Núi Song Ngư

Thơ   •   10.11.2021
Sơn thủy so xem chốn hữu tình, Chưng đây mừng thấy lạ hòa thanh. Dăng ngang biển, chờn vờn lớn, Cao chọc trời, ngần ngật xanh. Muôn kiếp chầu về đền Bắc cực, Ngàn thu chống khỏe cõi Nam minh. Đời đời trụ thạch quyền trong nước, Thiên hạ nào ai chẳng

Cái đó

Thơ   •   10.11.2021
Mưa một trận dẫy ngòi hoa, Quyền nẩy cho đi trấn cõi xa. Sấu vươn lưng ngang suối biếc, Rồng há miệng đớp doành la. Lòng không lồng lộng người xem thấy, Đường lợi nhao nhao nước chảy qua... Ơn chúa biết tài, hay cắt đặt, Duyên ra, cá nước khắp hòa nh

Lưu Nguyễn gặp tiên trong động

Thơ   •   10.11.2021
Khói tỏa xanh xanh bóng tịch dương, Cỏ hoa chào khách khéo đưa đường. Mây che cửa chim bay hết, Suối thay cầm tiếng nhặt xoang. Sông có bích đào non nước dẫy, Cõi nhiều hồng hạnh tháng ngày trường. Cánh hoa dầu chẳng người tiên rước, Chó sủa âu là hẳ

Hoạ vần bài Vịnh trăng (VI)

Thơ   •   10.11.2021
Nồng lạt đà từng trải mọi tình, Mười phần chưa nhẫn một phần thanh. Kiền khôn dòm khắp cơ vần chuyển, Dâu bể soi nhiều sự biến canh. Ánh tóc thành thần thu đã bạc, Tỏ lòng liệt nữ tuổi còn xanh. Rất cao dầu muốn cho cao nữa, Lãng đãng sao chưa đoái l

Canh ba (II)

Thơ   •   10.11.2021
Đến ba canh ban trống ba, Trên không lác đác tuyết bay hoa. Cửa doanh liễu kín khăng khăng đóng, Thuyền bãi lau kề dặng dặng ca. Thiết thạch lòng bền chăng nỡ trễ, Quan san đường viễn ngại chi qua. Chín trùng nằm miễn yên giấc, Nước đã yên, lọ hỏi nh

Canh năm (I)

Thơ   •   10.11.2021
Canh chầy đèn hạnh lâm dâm, Xao xác lậu canh trống điểm năm. Nguyệt đầu non treo chếch chếch, Sương mặt đất ướt đầm đầm. Rừng khuya bố cốc còn khua gióng, Làng nọ nông phu đã thức nằm. Bóng ác rạng đông, trời đã sáng, Tiếng gà sôi nổi, tiếng hàn châm

Màn hoè

Thơ   •   10.11.2021
Trời hè đằng đẵng thuở ngày chầy, Rợp rợp màn hòe bóng mới xoay. Chói chói hoa vàng đưa gió, Đùn đùn tàn lục giương mây. Trong nhà tể tướng: sum họp, Ngoài cửa công hầu: chật vây. Thêm có cầm ve dặng dõi, Khiến người hóng mát động niềm tây.

Núi Thần Phù

Thơ   •   10.11.2021
Phân cõi Nam Châu đất Ái Châu, Bút Vương khôn mạc cảnh Thần Phù. Muối pha bãi bạc sông sâu hoáy, Chàm nhuộm cây xanh núi tuyệt mù. Khói quán, mây ngàn tuôn ngùn ngụt, Chợ quê, sóng bể dức ù ù. Kìa ai rửa sạch trong niềm tục: Một chiếc thuyền câu chở

Đại hạn gặp mưa

Thơ   •   10.11.2021
Đã dư mấy tháng ngày khô khao, Mừng thấy trời cho một trận rào. Hoa đượm màu tươi cười hớn hở, Cá mừng nước ngọt nhảy lao xao. Trong triều mọi sĩ đều ca vịnh, Ngoài nội tam nông kẻo ước ao, Nhuần khắp bốn phương tạo hóa, Mây tuôn năm thức chín trùng

Vịnh Hạng Vũ

Thơ   •   10.11.2021
Học thông muôn địch dám ai đè! Nền bá vương xưa vẫn nhắm nhe. Mười một phen khua Tần lạnh gáy, Bảy mươi trận đã Hán tanh mè. Chẳng dùng Á phụ, tôi xương rắn, Nên phải Trần Bình, chước éo le. Chí sĩ nay dầu bàn bạc tới, Khá hờn, khá tiếc, khá mè he.

Tuyết buổi chiều ở trên sông

Thơ   •   10.11.2021
Nghi ngút ngàn Tương bóng ác thâu, Trời hoà có tuyết cảnh thêm mầu. Hư không vẩy khắp hoa nghìn khóm, Thế giới đông nên ngọc một bầu. Buồm chiếu phau phau thuyền chở nguyệt, Áo tơi sù sụ khách ngồi câu. Đầu Ngô, cuối Sở từng đi lại, Viếng hỏi Quân Sơ

Nắng mùa hè

Thơ   •   10.11.2021
Buồn nghe dặng tiếng, tiếng cầm ve, Gióng khách chào ai bấy, hỡi hè ? Bẻo lẻo đầu ghềnh con bố cốc, Lênh đênh mặt nước cái đè he, Ngày chầy phảng phất hồn hồ điệp, Đêm nhắp mơ màng tiếng tử qui, Nóng nảy làm chi cờ dạo cuộc, Nam huân sao chửa lọt s

Canh hai (I)

Thơ   •   10.11.2021
Vắng gần xa, khách vãng lai, Khúc rồng canh đã chuyển sang hai. Lầu treo cung nguyệt, người êm giấc, Đường quạnh nhà thôn, cửa chặt cài. Cảnh vật chòm chòm bay lửa đóm, Cỏ hoa gốc gốc đượm hương trời. Có người đắc thú trong khi ấy, Đoản địch còn xong

Tiên nữ tiễn Lưu Nguyễn (I)

Thơ   •   10.11.2021
Khách hỡi, chào ai kíp nỡ từ ? Xui người bát ngát phải nên đưa. Dùng dằng động ngọc vừa khi sớm, Dìu dặt làng hoa nhẫn khắc trưa. Đường khách dặm ngàn chàng hãy lại, Chăn loan nửa bức thiếp còn chờ. Non xanh nước biếc khi lành lạnh, Cũng chớ cho hay

Cây cau

Thơ   •   10.11.2021
Ơn chúa vun trồng những thuở nao, Một năm là một nhẫn lên cao. Buồng đống cháu con bao xiết kể, Nhà đầy khách khứa hỏi han chào. Lưng hằng đai thắt mưa nhuần gội, Đầu đã tàn che nắng chẳng vào. Giữa trời chăm chắm nên rường cột, Gió cả dầu rung chẳng

Lúc đầu thu ở đất khách

Thơ   •   10.11.2021
Một trận kim phong mới mới vây, Mối sầu kia ắt kẻ làm bây. Trăng kề cửa hay lòng sạch, Gió xuyên rèm tỏ ý tây. Chăn lạnh dậy nương con cháu vắng, Đêm dài ngồi nhẫn khắc canh chầy. Lòng thu bát ngát trong khi ấy, Hầu cắt làm khuây lại chẳng khuây!

Cái điếu

Thơ   •   10.11.2021
Đã nên danh giá nhất trên đời Kẻ kính người nưng khắp mọi nơi Đầu mũ lưng đai ngồi chểnh chện Lòng sông dạ bể xiết xa khơi Tiếng kêu réo sấm lừng vang đất Hơi thở tuôn mây rẽ ngất trời Một trận ra uy trong nước lộn Ải nam khói tạt bắc chìm hơ

Vịnh thuyền người đánh cá

Thơ   •   10.11.2021
Năm hồ chiếm được chốn câu chài, Biếng thốt Cô Tô cũ có đài. Mui rách dập dềnh năm bảy chiếc, Chèo cùn nối nắm một đôi đai. Tiệc vậy tứ hữu từng quen bén, Cần đổi tam công tiếc chẳng hoài. Phong nguyệt ít nhiều song viết đủ, Khứng đâu vơ bậy, khứng c

Lại vịnh cây cau

Thơ   •   10.11.2021
Được chốn đi về tốt lạ lùng, Vì người dễ khiến thức khoe hồng. Mình cài xiêm lục phe đuôi phượng, Bóng tiểu trì thanh uốn khúc rồng. Tiết cứng khá phen quân tử trúc, Thói cao chẳng nhượng đại phu tùng. Trời sinh có ý dù nên nữa, Tàn rợp đời đời cửa

Hoàng Giang điếu Vũ nương

Thơ   •   10.11.2021
Ngàn lau san sát, cỏ xanh xanh, Sảy nhớ ngày xưa kẻ tiết trinh. Cách trở bấy lâu hằng giữ phận, Hiềm nghi một phút, bỗng vô tình... Hay lòng, phó mặc vầng cao thẳm, Lẻ bóng tìm nơi chốn vắng thanh. Dầu nhẫn ai ai qua đến đấy, Thương nàng hoà lại trác

Động Bạch Nha

Thơ   •   10.11.2021
Một chốn kiền khôn một chốn xuân, Đã dành phong cảnh thú thanh tân. Quanh co nước biếc doành muôn khảm, Chồng chập non xanh đá mấy lần. Quét bụi trần không một sở, Xui lòng khách hứng mười phân. Nhàn nào đấng thánh xem ngày trước, Biết được hư không

Giới quan liêu

Thơ   •   10.11.2021
Điêu đương ngàn ngạn áo hồng sa, Mừng chịu ơn phong xuống tới nhà. Tán rợp bóng hoè che mặt ngọc, Hương ngưng dặm liễu đượm hài hoa. Tiệc vây la ỷ người sum họp, Nhạc vỡ cầm tranh tiếng dõi ca. Phú quý nhìn xem yêu hết tấc, Máy nghèo sao khéo hãm ngư

Lại vịnh Tô Vũ

Thơ   •   10.11.2021
Cờ sứ bền cầm một cán không, Mười năm chẳng trễ tiết cô trung. Đất Hồ sương tuyết gầy mình hạc, Đền Hán ngày đêm nhớ mặt rồng. Biển bắc xuân chầy, dê chẳng nghén, Trời nam thu thẳm, nhạn khôn thông. Kì lân tượng vẽ còn rành rạnh Tôi Hán nào ai dám ví

Vương Tường thất sủng

Thơ   •   10.11.2021
Đền rồng tấc thước mấy lần mây, Tay áo năm canh nước mắt đầy. Xuân tới biếng nhìn hoa giấu mặt, Thu về thẹn thấy liễu chau mày. Trướng loan lạnh lẽo, hồn hồ ẩn, Cầu Thước bơ vơ chiếc nhạn bay. Thương nhỉ, hồng nhan nguyền khéo lỗi! Gác Đằng nhờ gió

Cây mai

Thơ   •   10.11.2021
Trội cành nam chiếm một chồi, Tin xuân mãi mãi điểm cây mai. Tinh thần sáng, thuở trăng tĩnh, Cốt cách đông khi gió thôi. Tiết cứng trượng phu thông ấy bạn, Nết trong quân tử, trúc là đôi, Nhà truyền thanh bạch dăng từng khối, Phỉ xứng danh thơm đệ

Khi bảng vàng đề tên

Thơ   •   10.11.2021
Thưa sách đan trì ai bén chiêu, Bảng vàng mừng đã thấy tên treo. Thấp cao vòi vọi chen hàng nhạn, Trên dưới làu làu hiện vẻ beo. Thoáng đến mấy tầng Bồng đảo lạ, Kẻ âu ba đợt Vũ môn nghèo. Bảng này chẳng phụ danh đồn dậy, Thấy hậu sinh còn nhiều kẻ

Cái chổi

Thơ   •   10.11.2021
Lời chúa vâng truyền xuống ngọc giai, Cho làm lệnh tướng quét trần ai. Một phen vùng vẫy, trời tung gió, Bốn cõi tung hoành, đất sạch gai. Ngày vắng dủ mây cung Bắc Hán, Ðêm thanh tựa nguyệt chốn lâu đài. Ôm lòng gốc rễ, lâu càng dãi, Mòn mỏi lưng cò

Cái cối xay (I)

Thơ   •   10.11.2021
Thóc lúa kho trời vẫn sẵn đây Tạc thành cái cối để mà xay Thu tàng châu ngọc tư mùa đủ Chuyển vận âm dương một máy xoay Đất phẳng nổi đùng cơn sấm động Vừng to vung té hạt mưa bay Đem tài xoay xoả ra tay giỏ Lợi dụng cho dân đủ tháng ngày

Gậy và nón

Thơ   •   10.11.2021
Vật tiện tuy chưa toại sở cầu, Khi dùng đến, mới biết rằng mầu. Tiết ngay, thờ chúa cơn nguy hiểm, Lượng rộng dung người thuở dãi dầu. Khỏe chống giang sơn no chốn chốn, Rợp che thế giới khắp đâu đâu. Ra trỏ, vẫy, xu cơ nhiệm, Quyền ở trong tay chức

Khoai

Thơ   •   10.11.2021
Nảy nảy khoai, chỉn giống lành, Vun trồng đã cậy có xanh xanh. Cha con đã chông đoàn dù tán, Cháu chắt càng nhiều nhựa vuốt nanh. Khảm kể ruộng nương, danh trửng giả, Bữa ăn chuông vạc lộc công khanh. Nẻo ra thì phá lấy ngôi trước, Một đám nhà ta a

Đáp thơ “Chồng bỏ”

Thơ   •   10.11.2021
Chàng hỡi hai ta nghĩa đã cân, Thốt thề chẳng hổ với linh thần. Trước cùng làm bạn, ngờ lâu họp, Rày bỗng nghe ai, nỡ kíp phân! Mây nước, dạ chàng dầu bạc nghĩa, Cỏ hoa, lòng thiếp hãy còn xuân. Biết đâu đã dễ đâu hơn nữa, Mà trọng tân nhân phụ cự

Chùa Trấn Quốc

Thơ   •   10.11.2021
Trung lập kiền khôn vững Đế đô, Mảnh danh Trấn Quốc ở Tây Hồ. Xuân Thu thêm có mười phần lạ, Hoa cỏ đành hay một thức phô. Hây hẩy hương trời thơm nữa xạ, Làu làu đèn bụt rạng như tô, Kìa ai đủng đỉnh làm chi đấy ? Một tiếng kinh khua một chữ mô.

Kênh Trầm

Thơ   •   10.11.2021
Đồn rằng huyện Ngọc có kênh Trầm, Tuy hẹp le vui hết mấy rằm. Gò nổi xương trâu rêu lún phún, Bãi lè lưỡi bạng bọt lăm tăm. Chan chan thuyền khách sào chưa nhổ, Sịch sịch chài ai cọc hãy cằm. Có kẻ kéo khan năm bảy lúc, Chờ cho thấy nước bỏ đêm nằm.

Canh năm (II)

Thơ   •   10.11.2021
Đến năm canh ban trống năm. Buồng lan đèn hạnh đã lâm dâm. Mơ màng bóng nguyệt kề song xế, Thánh thót chày thu cách nước đâm. Người thức lầu hồng còn bịn rịn, Ngựa quen đường tía đã lăm chăm. Chín trùng khi ấy ban chầu đã, Vô sự dầu ta mặc sức nằm.

Cái quạt

Thơ   •   10.11.2021
Thác ở trong tay tạo hoá quyền, Một mình thờ chúa thuở hè thiên. Lưng mềm yểu điệu mười lăm tuổi, Má điểm yên chi bảy tám khuyên. Dặm liễu đã từng che mặt ngọc, Đường hoa có thuở vẫy người tiên. Tới thu lại thấy yêu đương nữa, Mựa chớ đàn chi thiếp b

Trăng (II)

Thơ   •   10.11.2021
Thế giới đông nên ngọc mấy tầng, Chín châu cùng thấy một vầng trăng. Làu làu bóng sáng tư mùa có, Dằng dặc dáng thanh, một vết chăng. Hồ thuở thuyền chơi, lòng Phạm Lãi, Đài khi câu rủ, thú Nghiêm Lăng. Trong kho vô tận, đòi dùng đủ, Ây gió thừa ra c

Vịnh Trương Lương

Thơ   •   10.11.2021
Phò Hán công nên, liền liện ngơi, Xích Tùng tiên tử, náu tìm chơi. Đền phong khúm núm còn từ bệ, Thành Cốc mơ màng đã tới nơi. Thuyền tếch Ngũ Hồ đênh một lá, Công hơn tam kiệt nhẫn đôi người. Thế gian đâu có thần tiên nhỉ ? Ơ hơ! Ông này sa chước ng

Canh ba (I)

Thơ   •   10.11.2021
Đêm chia nửa, khéo hai là, Giữa giáp canh, ban trống ba. Đường quạnh phất phơ cây ngất gió, Trên không lác đác tuyết bay hoa. Bâng khuâng kẻ mệt hồn thần nữ, Phảng phất trời cao bóng tố nga (trăng). Nhớ chúa kìa ai nằm chẳng nhắp, Thâu đêm tr

Nhà dột

Thơ   •   10.11.2021
Lều tiện ba gian trả nắng sương, Thấy trời dòm xuống, biết trời thương. Dồi dào đã được nhờ ơn nước, Soi tới càng thêm tỏ bóng gương. Đêm có ả trăng làm bạn cũ, Ngày thì dì gió quét bên giường. Lại còn một vẻ thanh quang nữa, Ngọc lộ đầy mâm để uống

Lưu Nguyễn trở lại không gặp tiên nữ

Thơ   •   10.11.2021
Ngọc Chân lại đến hỏi chưng đây, Rầy đã rêu rêu bụi bụi đầy. Ca khúc rền rền cách núi, Lành doành văng vẳng khoá mây. Thức cây chẳng phải xanh phen nọ, Điểm khói nào còn biếc bấy chầy. Mặt nước hoa trôi lành lạnh đấy, Người tiên mời rượu ở đâu rầy?

Trúc quân tử

Thơ   •   10.11.2021
Giống lạ Giang Lăng đã được dành. Một mai năng chiếm được cao danh. Lòng không, chẳng vả phô niềm tục, Khí cứng hằng thìn một tiết thanh. Sớm còn đeo chim phượng đỏ, Khuya chờ mọc cháu rồng xanh. Kham chi thế gọi là quân tử. Sương tuyết nào hề bén mì

Con gà

Thơ   •   10.11.2021
Họ Chu từ thuở dưỡng nên thân, Năm đức gồm no: trí, dũng, nhân. Đầu đội văn quan cao mấy tấc, Chân giương vũ cựa nhọn mười phân. Nhiều phen làm bạn trong song Tống, Mấy phút đưa người khỏi đỗi Tần. Dầu nhẫn hôm nào phong vũ, Ắt chăng chẳng phụ chức

Con cóc

Thơ   •   10.11.2021
Chừ thuở nên thân tấm áo sồi, Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi. Nâng tay mấy phút, oai hùm nép, Tắc lưỡi đôi lần, chúng kiến lui. Mừng thấy đàn con ra chịu ấm, Dễ còn ả Tố kết làm đôi. Miếu đường có thuở vang lừng tiếng, Giúp được dân làng kẻo nắ

Chức Nữ nhớ Ngưu Lang (I)

Thơ   •   10.11.2021
Một mình vò võ chốn Hà đông, Nhớ khách đầy vơi luống những trông... Gối ngọc giấc màng êm lưới đệm, Thoi vàng tay ngại mắc trên không. Đêm thanh lần tưởng hai phương nguyệt, Ngày vắng buồn xem một dải sông. Gẫm thấy một thu là một họp, Còn hơn kẻ chự

Trời thu trăng sáng

Thơ   •   10.11.2021
Bốn mùa no, bốn, thiếu mùa nào, Trăng một thu chầy, vặc vặc cao. Hây hẩy gió vàng thông ải nhạn, Làu làu bóng ngọc suốt nhà giao. Dãi dầm chén khách kề hiên cúc, Nhẹ chở thuyền ai ngược động đào. Có kẻ lòng còn ưu ái cũ, Ngồi năm trông nhẫn, xế lầu s

Núi Nam Công

Thơ   •   10.11.2021
Đá ấy xương, cỏ ấy lông, Trời Nam đứng giữa, gọi Nam công. Múa vai bóng rợp dân muôn họ, Giương cánh nâng phò nước chín trùng. Lóng lánh kiền khôn thế giới, Xênh xang xuân hạ thu đông. Đành hay là giống trời sinh có, Ngỏng cổ chầu về đất tổ long.

Lại vịnh cảnh mùa hè

Thơ   •   10.11.2021
Từ thuở Chu minh chịu lệnh hè, Thừa lương đình viếng sáng bằng the. Ngày chầy, đêm kíp sầu hồn bướm, Lá rụng, hoa tàn động xác ve. Ngoài cửa đùn đùn tan bóng trúc. Công đường thay thảy phủ màn hòe. Thi nhân khi ấy chi làm bạn ? Một triện trầm hương m

Rau cải

Thơ   •   10.11.2021
Nhà ta có cải vãi nơi nương, Đất phúc sinh thành của lạ dường! Áo đã tương xanh, tương thức lục, Đầu chăng đội bạc, đội hoa vàng! Ba đông xuân sắc nhân chưng tuyết, Một tiết âm nhu chẳng quản sương. Bàn bạc chua cay, đòi miệng thế, Miễn là đỡ được th

Con muỗi

Thơ   •   10.11.2021
Muỗi hỡi mi sinh giáp tí nào? Đêm đêm lẻn đến cửa phòng tao ? Ngày thì đủng đỉnh bên lầu ngọc, Hôm đã thung thăng tiểu má đào. Ghẹo Hằng Nga khi nguyệt hiện, Trêu Thần Nữ thuở chiêm bao. Canh khuya lần quất làm cho nhọc, Châm đốt ngoài da có xuể nao!

Hoạ bài Mấy mầm liễu đỏ một thuyền chài

Thơ   •   10.11.2021
Giang thiên phẳng lặng tạnh mưa, Bãi, một thuyền ai giục sóng đưa... Hoa bén mùi thơm khi cá hớp, Cụm êm bóng thỏ thuở song thưa. Khê sơn cảnh lạ nào đâu thiếu ? Phong nguyệt kho đầy của ấy thừa. Dẽ có nơi khôn mạc được: Ái ưu khăn khắn một lòng sơ.

Người bù nhìn (I)

Thơ   •   10.11.2021
Thắt lưng, đội nón, thuở qua ưa, Nhà chúa truyền cho giữ ruộng dưa. Tay áo phất phơ thuở gió, Mồ hôi lã chã khi mưa. Khua loài điểu thử đi cho quạnh, Dễ đứa điền phu làm biếng thưa. Chực hăm hăm bờ ruộng ấy, Bấy lâu đã được trái nào chưa ?

Vịnh cảnh mùa đông (II)

Thơ   •   10.11.2021
Đòi phượng lạt sạt trận hàn phong, Da diết người thay bấy hỡi đông! Mốc rắc rêu tiền, xanh những tuyết, Cát pha màu bạc, giá đầy sông. Chuông vàng ngàn khói thông về hạc, Canh diễn lầu châu nước ngán rồng. Chớ chớ ngại rằng mai lạnh lẽo, Kìa kìa ma

Hoạ vần bài Vịnh trăng (X)

Thơ   •   10.11.2021
Cày cạy nàng nào khéo hữu tình, Mặt làu làu, vóc thỏ thanh thanh. Tròn tròn, méo méo in đòi thuở, Xuống xuống, lên lên suốt mấy canh. Tháng tháng liếc qua lầu đỏ đỏ, Đêm đêm liền tới trướng xanh xanh. Yêu yêu, dấu dấu đàn ai gẩy, Tính tính, tình tình

Vịnh cảnh mùa thu (II)

Thơ   •   10.11.2021
Hơi may hây hẩy lọt chồi ngô, Đòi trận so le nhạn khiếp thu. Xan xát vàng, buông giậu cúc, Phau phau bạc, phất cờ lau. Hòe pha khóm lục chim phơi ngọc, Nguyệt giãi dòng trong cá hớp châu. Với hỏi kìa ai trong tuyết tĩnh, Thửa về niềm niệm mãi sông Ng

Đồng doanh trại ở Nang Sa

Thơ   •   10.11.2021
Đất khỏe Nang Sa lũy họp vây, Binh nhiều giúp nước cỏ cùng cây. Đăm chiêu đồ mở hình cao thấp, Chủ khách lòng mừng thế kíp chầy. Ngàn nọ tuôn thêm oai gió, Đỉnh kia chổng hợp trận mây. Thiểm châu dân đã ca ngươi Phạm, Ngoài cõi làu làu vắng giặc Tây.

Hoạ bài Người hái củi

Thơ   •   10.11.2021
Đầu non đã tạnh khói còn om, Mấy gã tiều phu đã sớm nom. Nửa bó yên hà mang đủng đỉnh, Đôi bên phong nguyệt quảy lom khom. Trời Nghiêu, ngày Thuấn mình ăn ở, Đỉnh Thạch non Thai mặt ngước nhòm. Ước thấy Mãi Thần mà thử hỏi: "Rằng xưa gặp chúa mé

Canh hai (II)

Thơ   •   10.11.2021
Nước cạn đồng hồ canh chuyển hai, Đêm dài đằng đẵng tựa năm dài. Vang ngõ nọ chày cao thấp, Nhộn lầu kia địch bẻ bai. Trăng sáng ba ngàn thế giới, Gió đưa mấy xóm lâu đài. Sẩy nằm khi ấy còn mường tượng, Văng vẳng thiều quân tiếng ở tai.

Vương Tường tự than thân

Thơ   •   10.11.2021
Liễu mềm khôn cưỡng trận đông phong, Than thở nào ai kẻ thấu cùng ? Ngậm giận lòng lang cưu thói dữ, Lại thương phận bạc lụy quần hồng. Sầu xuân chẳng quản hoa gầy guộc, Đeo tuyết cho nên nguyệt lạnh lùng. Thân gái bọt bèo bao xiết kể, Tiếc chăng ơ

Thánh Gióng

Thơ   •   10.11.2021
Tinh anh dấu được khí kiền khôn, Thiên tướng vang lừng tám cõi đồn. nghe tiếng Hùng vương bẻn nảy việc, Mảng danh, nghịch tặc đã kinh hồn. Vợt vàng ngựa sắt hằng di để, Làng Gióng non Trâu miếu hãy còn. Tự điển trời nam ngôi đệ nhất, Âm phò quốc thế

Vương Tường tự vẫn

Thơ   •   10.11.2021
Ngậm giận tanh hôi chốn bất mao, Suối vàng nên lụy khách thơ đào, Quanh rường một bức khăn là rủ, Vừng nguyệt ba canh bóng quế cao. Gương đã lạnh lùng mờ cẩm trướng, Châu còn thánh thót quẹn lá bào. Khá thương tiết ngọc gan vàng ấy, Tôi Hán ngồi xem,

Cây đánh đu

Thơ   •   10.11.2021
Bốn cột lang, nha cắm để chồng, Ả thì đánh cái, ả còn ngong. Tế hậu thổ, khom khom cật, Vái hoàng thiên, ngửa ngửa lòng. Tám bức quần hồng bay phới phới, Hai hàng chân ngọc đứng song song. Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy, Nhổ cột đem về để lỗ không.

Bờn trăng

Thơ   •   10.11.2021
Thế giới đông nên mọc một vầy, Lòng tham thanh lạ hết cây. Sông Ngân Hán phẳng đi về lẩn, Cung Quảng Hàn cao ăn ở chầy. Cấm, cũng nép sau thu giá, Ngăn, thì bay trước rẽ mây, Bốn mùa cùng rạng, thu thêm nhẵn, Dường ấy âu là có ý tây.

Núi Ngọc Nữ

Thơ   •   10.11.2021
Trấn nam minh nẻo thuở xưa, Xuân thu đã mấy, có chồng chưa ? Dồi thức bạc khi sương rụng, Thoảng mùi hoa thuở gió đưa, Gương mượn trăng soi, mầu lại tỏ, Tóc khoe mây vén, nhặt thì thưa. Dấu thiêng lượng rộng kiền khôn gộp, Ngọc đá bao nhiêu chứa chẳ

Cuối xuân nơi đất khách

Thơ   •   10.11.2021
Hoa bay nước chảy cũng vô tình, Gió quyến xuân đưa đến Sở Thành. Hồ điệp mơ màng nhà mấy dặm, Tử quy khắc khoải nguyệt ba canh. Thư nhàn dễ cách, lòng nên bạc, Tóc tuyết khôn cầm thức lại xanh. Nẻo ấy chẳng về, về ắt được, Năm hồ cảnh vắng có ai tra

Vịnh người đánh cá (I)

Thơ   •   10.11.2021
Pha lê muôn khảm thức lom om, Xảy thấy thằng chài đứng đấy nom. Manh áo quàng, mang lụp xụp, Quai chèo xách, đứng lom khom. Ngư hà vẫy đuôi chúi ẩn, Âu lộ hay cơ ngó nhòm. Có kẻ làm ơn nheo nhẻo mách; Kia kìa Phạm Lãi mái kia mom.

Ở bãi cát Trà Thượng

Thơ   •   10.11.2021
Lẻ thẻ năm ba nhà khắp đồi, Cuốc cày sá tiếc trận rào thôi, Bủa chài cuối bãi thuyền đôi chiếc, Hái củi đầu non búa kể đôi. Cá được cất tươi giương thế hứng, Thơ ngâm đòi trận thỏa khi rồi. Ê a khách đến, trà ba chén, Cam quít đầy vườn ấy những tôi.

Chùa Pháp Vân

Thơ   •   10.11.2021
Một ánh giao nguyên ngọc đúc nên, So trong tĩnh giới khắp tam thiên. Trân châu tráng lệ tầng tầng xếp, Kim ngọc đoan trang rỡ rỡ in. Hẩy hẩy từ phong duồng tính tục. Làu làu trí nguyệt tỏ cơ thiền. Nghiệm xem ấm tí thần thông bấy. Phổ độ nào đâu chẳ

Chùa núi Phật Tích

Thơ   •   10.11.2021
Ngước mặt trông lên Phật Tích san, Non cao vòi vọi khách phàm gian. Chim bay rặng liễu dường thoi dệt, Nước chảy ao sen tựa suối đàn. Thông bảy tám hàng che kiểu tán, Mây năm ba thức phủ thay màn. Thi nhân rằng có đâu hơn nữa, Cho khách xin làm một b

Hoạ vần bài Vịnh trăng (VII)

Thơ   •   10.11.2021
Gió gió mưa mưa nhẫn bạc tình, Vui trăng luyện một tiết trăng thanh. Soi trên dưới muôn muôn chốn, Suốt xưa nay mấy mấy canh. Người nhớ vua, nhìn sa đũa ngọc, Kẻ trông chồng, ngẫm ruổi mây xanh. Muôn thu ngàn kiếp lồng đến ấy, Tả hữu cho nhiều phụ bậ

Vịnh người đánh cá (II)

Thơ   •   10.11.2021
Nẻo đầu kể bốn thú nhàn cư, Song viết ai bằng song viết ngư ? Tám bức giang sơn thu vẹn tám, Tư mùa phong cảnh đủ hòa tư. Dong thuyền đợi tiên Tô tử, Nêm chèo ca khúc Sở từ. Nọ nọ Bàn Khê công nghiệp cả. Xuân thu lần kể tám mươi dư.

Chử Đồng Tử

Thơ   •   10.11.2021
Hiền thảo dòng nhà thấu bích thiên, Đành hay phúc thiện máy từ nhiên. Mấy thu nhem nhuốc rèn gan sắt, Một phút giàu sang kết bạn tiên. Triệu Việt nạn xong nên nghiệp cả, Ức Trai mộng tỏ phỉ lời nguyền. Anh linh miếu dõi lừng hương khói, Còn nước cò

Hoạ bài Tết Nguyên Đán

Thơ   •   10.11.2021
Âm dương hai khí mặc xoay vần, Nẻo quá thì đông, đến tiết xuân. Chân ngựa rong khi tuyết tĩnh, Hàng loan sắp thuở canh phân. Chín trùng chăm chắm ngôi hoàng cực, Năm phúc hây hây dưới thứ dân. Mây họp đền nam chầu chực sớm, Bên tai dường mảng tiếng

Núi goá

Thơ   •   10.11.2021
Hòn đá ai đem đặt giữa đồng, Mĩ miều thiếu nữ lựa người trông. Da dồi phấn tuyết nhuần nhan sắc, Đầu gội mưa xuân sạch bụi hồng. Ngày ngắm gương ô đáy nước, Đêm cài lược thỏ trên không. Tới nay tuổi đã bao nhiêu tá ? Chành chạnh bền gan chửa lấy chồ

Đuốc hoa đêm động phòng

Thơ   •   10.11.2021
Hơi dương đầy cửa, ngọc đầy thềm, Nến đốt buồng lan đã rạng đêm. Thoáng thấy mặt hoa mày liễu tốt, Rỡ phong trướng vóc đệm hương êm. Song song loan phượng cùng chen bóng, Lớp lớp hùng bi đã báo điềm. Mừng ấy lại mừng kim bảng nữa, Dường bằng gấm lạ

Dệt cửi

Thơ   •   10.11.2021
Thấy dân rét mướt, nghĩ mà thương, Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường. Tay ngọc lần đưa thoi nhật nguyệt, Gót vàng dận dạn máy âm dương.

Chức Nữ nhớ Ngưu Lang (II)

Thơ   •   10.11.2021
Sảy tưởng người lành vẩn hạt châu, Biết chăng, chăng biết hỡi chàng Ngưu? Thơ bày chữ gấm ngàn hàng thảm, Cửi mắc thoi vàng mấy đoạn sầu. Cung quế cao xanh đượm khói, Dòng Ngân tĩnh biếc in thu. Ước đem lòng đến cùng tiên thốt, Sớm muộn tham hoa bạch

Viếng Lê Khôi

Thơ   •   10.11.2021
Dẹp yên tám cõi mới buông tay, Lồ lộ Thai tinh một đóa mây. Tể tướng, bếp tàn, mai lạnh vạc, Tướng quân doanh vắng, liễu chau mày. Phong lưu phú quí ba đời thấy, Sự nghiệp công danh bốn bể hay. Thương ít tiếc nhiều khôn xiết chế, Miếu đường hầu lấy c

Mưa đêm ở Tiêu Tương

Thơ   •   10.11.2021
Nhàn Tương thuở rụng hạt mưa, Lã chã thâu đêm gió đưa... Trút tiếng vàng, cao lại thấp, Rung cành ngọc, nhặt thì thưa. Đành hanh tai khách nằm chăng nhắp, Lai láng lòng thơ hứng có thừa. Sớm dậy xem rồng mọc cháu, Nghìn hàng chổng, lạ hơn xưa!

Vịnh Tiêu Hà

Thơ   •   10.11.2021
Vả đao bút lại bấy nhiêu lâu, Xảy gặp cao hoàng, phúc bởi đâu? Mình cuốn đồ thư, hình thế biết, Tay cầm mực thước, trí mưu sâu. Vận lương trấn ải, no quân Hán, Phân đất phong hầu, đội tước châu. Chư tướng, nhường cho công đệ nhất, Tót danh tam kiệt,

Lại vịnh trăng non

Thơ   •   10.11.2021
Ngọc đúc mười phân vuỗn chửa đầy, Nửa vầng rầng rậng mé phương tây. Bên loan Chức Nữ cài vòng lược, Dấu cũ Khai nguyên bấm móng tay. Cá ngỡ câu chìm xui bạn lánh, Chim ngờ cung bắn bảo nhau bay. Khi này tuy hãy còn rằng bé, Có thuở vầng ra thiên hạ h

Trăng thu trên hồ Động Đình

Thơ   •   10.11.2021
Thu cao, hồ sạch, nguyệt bằng ngày, Đáy nước trên không một dạng tày. Cây dựng non Yên xanh dễ thấy, Cát in bãi Sở bạc khôn thay. Dòng lam nghìn dặm quyến phẳng, Hương quế ba canh gió bay. Có khách hứng dòng tìm Phạm Lãi, Vốc chơi, mừng thấy nguyệt b

Hoa mai đầu mùa

Thơ   •   10.11.2021
Vườn xuân dòm dỏ đã chầy ngày, Dễ có Lâm Bô biết được hay. Hoa bạc phau phau xâm khí tuyết, Chồi xanh êu ếu lạt hơi may, Tỏ tường phòng khách khi đầm ấm. Lau chuốt lòng xuân đoạn đắng cay. Kham hạ điều canh còn để đợi, Kẻo còn đào mận những thay lay.