Chùa Trấn Quốc

Thơ   •   Thứ tư, 10/11/2021, 16:57 PM

Trung lập kiền khôn vững Đế đô, Mảnh danh Trấn Quốc ở Tây Hồ. Xuân Thu thêm có mười phần lạ, Hoa cỏ đành hay một thức phô. Hây hẩy hương trời thơm nữa xạ, Làu làu đèn bụt rạng như tô, Kìa ai đủng đỉnh làm chi đấy ? Một tiếng kinh khua một chữ mô.

Nội dung bài thơ: Chùa Trấn Quốc

Trung lập kiền khôn vững Đế đô,

Mảnh danh Trấn Quốc ở Tây Hồ.

Xuân Thu thêm có mười phần lạ,

Hoa cỏ đành hay một thức phô.

Hây hẩy hương trời thơm nữa xạ,

Làu làu đèn bụt rạng như tô,

Kìa ai đủng đỉnh làm chi đấy ?

Một tiếng kinh khua một chữ mô.


Bài thơ Chùa Trấn Quốc của tác giả Nhà thơ Lê Thánh Tông - 黎聖宗, Lê Tư Thành, 黎思誠, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.

Nhà thơ Lê Thánh Tông - 黎聖宗, Lê Tư Thành, 黎思誠

Nghệ danh: Lê Thánh Tông

Tên thật: Lê Thánh Tông 黎聖宗, Lê Tư Thành, 黎思誠

Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Lê Thánh Tông - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác

icon Tác giả Lê Thánh Tông, Thơ Lê Thánh Tông, Tập thơ chữ Nôm

Tổng hợp

Cùng tập thơ: Thơ chữ Nôm

Vịnh bài Hòn đá tảng giặt vải mùa rét

Thơ   •   10.11.2021
Đằng đẵng canh chày tuyết nhiễm xâm, Đỉnh đang đâu dội, tiếng hàn châm ? Chày kình vưỡn ngỡ thằng đồng nện, Cối thỏ dường đà ả quế đâm. Thục nữ tơi bời vui cửi dệt, Tao nhân ánh ỏi hứng thơ ngâm. Vẳng nghe sẽ chạnh niềm ưu ái, Màng tượng dường bằng p

Lưu Nguyễn nhớ tiên nữ (I)

Thơ   •   10.11.2021
Động ngọc rành rành tượng dấu phong, Một phen xảy nhớ, một phen trông. Đợi chờ hằng tưởng người cung Lãng, Thức nhắp nào khuây khách đỉnh Bồng. Non nước lạ nghìn nhàn cá diễn, Phượng loan đường một gối chăn chung. Ước chi lan huệ vầy làm một, Lại thấ

Chử Đồng Tử

Thơ   •   10.11.2021
Hiền thảo dòng nhà thấu bích thiên, Đành hay phúc thiện máy từ nhiên. Mấy thu nhem nhuốc rèn gan sắt, Một phút giàu sang kết bạn tiên. Triệu Việt nạn xong nên nghiệp cả, Ức Trai mộng tỏ phỉ lời nguyền. Anh linh miếu dõi lừng hương khói, Còn nước cò

Con kiến

Thơ   •   10.11.2021
Phô loài cả, vóc nghênh ngang, Mòn mọn song mầu, kiến mấy càng. Đạo, biết quân thần tôn nhượng, Cơ, hay thiên địa nhu cương. Báo ơn nghĩa cả, danh còn để, Xuyên ngọc, tài cao tiếng hãy vang. Có thuở trận ra binh phụ tử, Kì kì chính chính sắp đôi hàng

Hoạ bài Người hái củi

Thơ   •   10.11.2021
Đầu non đã tạnh khói còn om, Mấy gã tiều phu đã sớm nom. Nửa bó yên hà mang đủng đỉnh, Đôi bên phong nguyệt quảy lom khom. Trời Nghiêu, ngày Thuấn mình ăn ở, Đỉnh Thạch non Thai mặt ngước nhòm. Ước thấy Mãi Thần mà thử hỏi: "Rằng xưa gặp chúa mé

Người ăn mày

Thơ   •   10.11.2021
Chẳng phải ăn đong, chẳng phải vay, Khắp hoà thiên hạ đến ăn mày. Hạt châu, chúa cất trao ngang mặt, Bệ ngọc, tôi từng đứng lượm tay. Nam bắc đông tây đều tới cửa, Trẻ già lớn bé cũng xưng thầy. Đến đâu dẹp hết loài muông cẩu, Thu cả kiền khôn một tú

Dệt cửi

Thơ   •   10.11.2021
Thấy dân rét mướt, nghĩ mà thương, Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường. Tay ngọc lần đưa thoi nhật nguyệt, Gót vàng dận dạn máy âm dương.

Lại vịnh cảnh mùa hè

Thơ   •   10.11.2021
Từ thuở Chu minh chịu lệnh hè, Thừa lương đình viếng sáng bằng the. Ngày chầy, đêm kíp sầu hồn bướm, Lá rụng, hoa tàn động xác ve. Ngoài cửa đùn đùn tan bóng trúc. Công đường thay thảy phủ màn hòe. Thi nhân khi ấy chi làm bạn ? Một triện trầm hương m

Lại vịnh trăng non

Thơ   •   10.11.2021
Ngọc đúc mười phân vuỗn chửa đầy, Nửa vầng rầng rậng mé phương tây. Bên loan Chức Nữ cài vòng lược, Dấu cũ Khai nguyên bấm móng tay. Cá ngỡ câu chìm xui bạn lánh, Chim ngờ cung bắn bảo nhau bay. Khi này tuy hãy còn rằng bé, Có thuở vầng ra thiên hạ h

Vịnh làng Chế

Thơ   •   10.11.2021
Bóng ác non đoài ban xế xế, Bỗng đâu đã tới miền Tam Chế. Mênh mang khóm nước nhuộm màu lam, Chận ngất đỉnh non lồng bóng quế. Chợ họp bên sông gẫm có chiều, Thuyền bày trên đất xem nhiều thể. Cảnh vật bằng đây họa có hai, Vì dân khoan giản bên tô th

Trăng thu dọi cây sân

Thơ   •   10.11.2021
Thu nguyệt kề sân thuở tạnh mưa, Ngàn cây hây hẩy gió thanh đưa, Vàng rây mấy khóm chồi cao thấp, Bạc điểm đòi chùm bóng nhặt thưa. Vẫy bút thơ tiên ngâm chẳng xiết, Đầy bầu rượu thánh hứng thêm thừa. Này này phong cảnh hòa tri kỉ, Lọ thốt Lan Đình l

Vịnh người hái củi (II)

Thơ   •   10.11.2021
Một rìu, một búa của hôm chiều, Song viết ai bằng song viết tiều ? Lần nguyệt pha sương, ngày tháng Thuấn, Tìm thông, hỏi quế, nước non Nghiêu. Mây che đầu, ngàn tầng tán, Suối vang tai, chín chặp thiều. Khủng khỉnh ăn nằm đời thánh chúa, Làm chi lầ

Đại hạn gặp mưa

Thơ   •   10.11.2021
Đã dư mấy tháng ngày khô khao, Mừng thấy trời cho một trận rào. Hoa đượm màu tươi cười hớn hở, Cá mừng nước ngọt nhảy lao xao. Trong triều mọi sĩ đều ca vịnh, Ngoài nội tam nông kẻo ước ao, Nhuần khắp bốn phương tạo hóa, Mây tuôn năm thức chín trùng

Núi Ngọc Nữ

Thơ   •   10.11.2021
Trấn nam minh nẻo thuở xưa, Xuân thu đã mấy, có chồng chưa ? Dồi thức bạc khi sương rụng, Thoảng mùi hoa thuở gió đưa, Gương mượn trăng soi, mầu lại tỏ, Tóc khoe mây vén, nhặt thì thưa. Dấu thiêng lượng rộng kiền khôn gộp, Ngọc đá bao nhiêu chứa chẳ

Trời thu trăng sáng

Thơ   •   10.11.2021
Bốn mùa no, bốn, thiếu mùa nào, Trăng một thu chầy, vặc vặc cao. Hây hẩy gió vàng thông ải nhạn, Làu làu bóng ngọc suốt nhà giao. Dãi dầm chén khách kề hiên cúc, Nhẹ chở thuyền ai ngược động đào. Có kẻ lòng còn ưu ái cũ, Ngồi năm trông nhẫn, xế lầu s

Lại vịnh Tô Vũ

Thơ   •   10.11.2021
Cờ sứ bền cầm một cán không, Mười năm chẳng trễ tiết cô trung. Đất Hồ sương tuyết gầy mình hạc, Đền Hán ngày đêm nhớ mặt rồng. Biển bắc xuân chầy, dê chẳng nghén, Trời nam thu thẳm, nhạn khôn thông. Kì lân tượng vẽ còn rành rạnh Tôi Hán nào ai dám ví

Lại vịnh cảnh mùa thu

Thơ   •   10.11.2021
Lác đác ngô đồng mấy lá bay, Tin thu hiu hắt lọt hơi may. Ngàn kia cách nước xo le địch, Mái nọ bên tường đủng đỉnh chày. Lau chổng bãi nam ngàn dặm rợp, Nhạn về, ải bắc mấy hàng bày. Quí Ưng, Tống Ngọc dường bao nữa, Khi ấy nhiều người cám cảnh thay

Cái chổi

Thơ   •   10.11.2021
Lời chúa vâng truyền xuống ngọc giai, Cho làm lệnh tướng quét trần ai. Một phen vùng vẫy, trời tung gió, Bốn cõi tung hoành, đất sạch gai. Ngày vắng dủ mây cung Bắc Hán, Ðêm thanh tựa nguyệt chốn lâu đài. Ôm lòng gốc rễ, lâu càng dãi, Mòn mỏi lưng cò

Cây cau

Thơ   •   10.11.2021
Ơn chúa vun trồng những thuở nao, Một năm là một nhẫn lên cao. Buồng đống cháu con bao xiết kể, Nhà đầy khách khứa hỏi han chào. Lưng hằng đai thắt mưa nhuần gội, Đầu đã tàn che nắng chẳng vào. Giữa trời chăm chắm nên rường cột, Gió cả dầu rung chẳng

Áp noãn

Thơ   •   10.11.2021
Trứng ở nhà ai chẳng nồng, Một hòn hỗn độn nẻo sơ đông. Ngoài in thái tố mười phân bạc, Trong nhuộm đan sa một điểm hồng. Sang, khó, nào ai chẳng đẹp miệng ? Xưa nay mấy kẻ chất nên chồng ? Giống lành nỡ để ba đông lạnh, Sá mượn kim kê ấp lấy tông.

Canh một (II)

Thơ   •   10.11.2021
Xao xác ban vừa một khởi canh, Giốc ai thánh thót thuở giang thành. Chồi hoa điểm tuyết hoa tương bạc, Đèn hạnh ngấn cù bóng loáng xanh. Hàn tự chuông kia thôi mới đấy, Tiều lâu người nọ ngủ sao đành ? Ít nhiều tâm sự trong khi ấy, Nhỡ lắm thay càng.

Đồng doanh trại ở Nang Sa

Thơ   •   10.11.2021
Đất khỏe Nang Sa lũy họp vây, Binh nhiều giúp nước cỏ cùng cây. Đăm chiêu đồ mở hình cao thấp, Chủ khách lòng mừng thế kíp chầy. Ngàn nọ tuôn thêm oai gió, Đỉnh kia chổng hợp trận mây. Thiểm châu dân đã ca ngươi Phạm, Ngoài cõi làu làu vắng giặc Tây.

Lại vịnh nắng mùa hè

Thơ   •   10.11.2021
Mai gầy liễu guộc, cỏ le te, Biết chạy làm sao khỏi nắng hè ? Đậu lá, võ vàng con bươm bướm, Ấp cây, gầy guộc cái ve ve. Thốt chi kẻ đã nằm trên gác, Thương một người còn lội dưới khe. Càng điểm mây mưa càng lõi lục, Hay làm cho bõ khách màn the.

Cái cối xay (II)

Thơ   •   10.11.2021
Tạo hoá gây nên khéo léo thay! Đặt làm một cối để mà xay. Ngoài lưng cũng có ba mươi nén, Trong dạ hằng thìn một tiết ngay. Có thuở ù ù cơn sấm động, Đòi phen lã chã hạt mưa bay. Lưng bền, cốt vững, muôn đời thịnh, Vần chuyển, lương dân đủ tháng ngày

Khoai

Thơ   •   10.11.2021
Nảy nảy khoai, chỉn giống lành, Vun trồng đã cậy có xanh xanh. Cha con đã chông đoàn dù tán, Cháu chắt càng nhiều nhựa vuốt nanh. Khảm kể ruộng nương, danh trửng giả, Bữa ăn chuông vạc lộc công khanh. Nẻo ra thì phá lấy ngôi trước, Một đám nhà ta a

Cây chuối

Thơ   •   10.11.2021
Thú nửa lâm tuyền, nửa thị thành, Vun trồng, toàn đội đức cao xanh. Dọc giơ gươm đẩu kinh cuồng khấu, Lá cuốn cờ xuân tượng thái bình. Trong sạch xưa sau ấy tiết, Móc mưa nhuần gội trong mình. Đành hay giống cố phù nước, Con cháu đời đời dõi đĩnh s

Vương Tường oán triều đình

Thơ   •   10.11.2021
Vật chi muông cỏ dám lăng loàn ? Âu hẳn trong triều ít kẻ ngoan ? Mặt thấy thư Hồ, văn vỡ mật, Tai nghe nhạc bắc, võ run gan. Mỡ thơm luống để nuôi thù khấu ? Bùn sũng nào hay đắp ải quan ? Vực nước ví dầu tài Vệ, Hoắc, Tanh hôi chi để lụy hồng nha

Ở bãi cát Trà Thượng

Thơ   •   10.11.2021
Lẻ thẻ năm ba nhà khắp đồi, Cuốc cày sá tiếc trận rào thôi, Bủa chài cuối bãi thuyền đôi chiếc, Hái củi đầu non búa kể đôi. Cá được cất tươi giương thế hứng, Thơ ngâm đòi trận thỏa khi rồi. Ê a khách đến, trà ba chén, Cam quít đầy vườn ấy những tôi.

Buổi sáng ngắm sông chài

Thơ   •   10.11.2021
Sông lồng lộng, nước mênh mênh, Lườn lượn chèo qua nép nép mình. Gió hiu hiu, thuyền bé bé, Mưa phun phún, nón kềnh kềnh. Chuông chiền mỗi mỗi coong coong gióng, Mõ xã lâu lâu cốc cốc lềnh. Bến liễu đâu đâu tìm mộng mộng, Đường về than thán, nguyệt c

Canh hai (II)

Thơ   •   10.11.2021
Nước cạn đồng hồ canh chuyển hai, Đêm dài đằng đẵng tựa năm dài. Vang ngõ nọ chày cao thấp, Nhộn lầu kia địch bẻ bai. Trăng sáng ba ngàn thế giới, Gió đưa mấy xóm lâu đài. Sẩy nằm khi ấy còn mường tượng, Văng vẳng thiều quân tiếng ở tai.

Lại vịnh Hàn Tín

Thơ   •   10.11.2021
Thấy rồng năm thức nặng mình phù, Nanh vuốt ra tài, mấy trượng phu ? Mũi bác chọc đông, Tề lạnh khói, Ngọn cờ trỏ bắc, Triệu bay lò. Nghìn vàng tấc tấc đền ơn mụ, Một gánh quằn quằn trả nợ vua. Hơn nữa, Ngũ Hồ có ai cấm ? "Cung tàng" lẩn th

Đáp thơ “Chồng bỏ”

Thơ   •   10.11.2021
Chàng hỡi hai ta nghĩa đã cân, Thốt thề chẳng hổ với linh thần. Trước cùng làm bạn, ngờ lâu họp, Rày bỗng nghe ai, nỡ kíp phân! Mây nước, dạ chàng dầu bạc nghĩa, Cỏ hoa, lòng thiếp hãy còn xuân. Biết đâu đã dễ đâu hơn nữa, Mà trọng tân nhân phụ cự

Vịnh người đánh cá (I)

Thơ   •   10.11.2021
Pha lê muôn khảm thức lom om, Xảy thấy thằng chài đứng đấy nom. Manh áo quàng, mang lụp xụp, Quai chèo xách, đứng lom khom. Ngư hà vẫy đuôi chúi ẩn, Âu lộ hay cơ ngó nhòm. Có kẻ làm ơn nheo nhẻo mách; Kia kìa Phạm Lãi mái kia mom.

Hoạ vần bài Vịnh trăng (III)

Thơ   •   10.11.2021
Ở cao song cũng thấu nhân tình, Vì có làu làu tính sáng thanh. Soi khắp đầu giêng liền cuối chạp, Suốt từ một khắc nhẫn năm canh. Tàn vàng xô lại chồi mai bạc, Bóng ngọc cây vào khóm trúc xanh. Dám hỏi những gì trong cối thuốc, Liệu âu còn thiếu mặ

Thằng đánh giậm

Thơ   •   10.11.2021
Rạng ngày cơm nước cất quân mau Khí nghệ tuỳ thân đủ trước sau Cán lọng giữa trời người đứng đó Vòng cung đạp đất thấy ai đâu Những phường trê chuối đều sây vẩy Mấy lũ đòng đong cũng dập đầu Dẹp nước yên rồi về kẻ chợ Bấy giờ các chị mới tranh nha

Lưu Nguyễn từ biệt các tiên nữ

Thơ   •   10.11.2021
Một niềm nhớ chúa một âu nhà, Cửa động dùng dằng ngại bước ra. Hương tứ phiêu, khi gió thổi, Cố viên lạc, thuở trăng tà, Non cao mây phủ dư ngàn dặm, Sông thẳm sầu đeo mấy phút hoa. Dầu nhẫn bắc nam đường có cách, Bao nhiêu cảnh cũ mựa quên mà.

Cây quế trong trăng

Thơ   •   10.11.2021
Ấy chẳng thiềm cung đan quế vay? Thế gian ít kẻ biết mùi cay. Thu thanh bóng tỏ mười phần sáng, Hồ sạch hương đong mấy hộc đầy. Củi hát tư mùa Ngô dõi búa, Thuốc đâm một chén thỏ vung chày. Từ khi mình nhẹ nên bay cánh, Chiếm được ngôi cao bốn bể hay

Lý Ông Trọng

Thơ   •   10.11.2021
Tầm cả tầm cao chỉn xuất quần, Khí thiêng quang nhạc dấu mười phần. Phò Nam, dẹp Bắc tài văn võ, Chắn nước, dời non sức quỉ thần, Vòi vọi Thuỵ Hương từ đã đặng, Nhơn nhơn Tư mã tiếng còn răn. Chàng Cao, gã Triệu chiêm bao rõ, Càng sợ An Nam có thánh

Vương Tường tự than thân

Thơ   •   10.11.2021
Liễu mềm khôn cưỡng trận đông phong, Than thở nào ai kẻ thấu cùng ? Ngậm giận lòng lang cưu thói dữ, Lại thương phận bạc lụy quần hồng. Sầu xuân chẳng quản hoa gầy guộc, Đeo tuyết cho nên nguyệt lạnh lùng. Thân gái bọt bèo bao xiết kể, Tiếc chăng ơ

Lại vịnh cây cau

Thơ   •   10.11.2021
Được chốn đi về tốt lạ lùng, Vì người dễ khiến thức khoe hồng. Mình cài xiêm lục phe đuôi phượng, Bóng tiểu trì thanh uốn khúc rồng. Tiết cứng khá phen quân tử trúc, Thói cao chẳng nhượng đại phu tùng. Trời sinh có ý dù nên nữa, Tàn rợp đời đời cửa

Hoạ bài Tết Nguyên Đán

Thơ   •   10.11.2021
Âm dương hai khí mặc xoay vần, Nẻo quá thì đông, đến tiết xuân. Chân ngựa rong khi tuyết tĩnh, Hàng loan sắp thuở canh phân. Chín trùng chăm chắm ngôi hoàng cực, Năm phúc hây hây dưới thứ dân. Mây họp đền nam chầu chực sớm, Bên tai dường mảng tiếng

Tiên nữ tiễn Lưu Nguyễn (II)

Thơ   •   10.11.2021
Khôn cấm lòng người (luống) thắm ưa, Đưa nhau mãi mãi mặt cùng đưa, Ngập ngừng miệng thốt châu sa lệ, Dìu dặt tay cầm nắng xế trưa. Cay đắng nỗi lòng đây luống chịu, Hiểm nghèo đường thế đấy tua ngừa. Kíp chầy lại thấy cùng nhau họp, Kẻo phụ

Con gà

Thơ   •   10.11.2021
Họ Chu từ thuở dưỡng nên thân, Năm đức gồm no: trí, dũng, nhân. Đầu đội văn quan cao mấy tấc, Chân giương vũ cựa nhọn mười phân. Nhiều phen làm bạn trong song Tống, Mấy phút đưa người khỏi đỗi Tần. Dầu nhẫn hôm nào phong vũ, Ắt chăng chẳng phụ chức

Lưu Nguyễn trở lại không gặp tiên nữ

Thơ   •   10.11.2021
Ngọc Chân lại đến hỏi chưng đây, Rầy đã rêu rêu bụi bụi đầy. Ca khúc rền rền cách núi, Lành doành văng vẳng khoá mây. Thức cây chẳng phải xanh phen nọ, Điểm khói nào còn biếc bấy chầy. Mặt nước hoa trôi lành lạnh đấy, Người tiên mời rượu ở đâu rầy?

Trăng thu trên hồ Động Đình

Thơ   •   10.11.2021
Thu cao, hồ sạch, nguyệt bằng ngày, Đáy nước trên không một dạng tày. Cây dựng non Yên xanh dễ thấy, Cát in bãi Sở bạc khôn thay. Dòng lam nghìn dặm quyến phẳng, Hương quế ba canh gió bay. Có khách hứng dòng tìm Phạm Lãi, Vốc chơi, mừng thấy nguyệt b

Vương Tường tự vẫn

Thơ   •   10.11.2021
Ngậm giận tanh hôi chốn bất mao, Suối vàng nên lụy khách thơ đào, Quanh rường một bức khăn là rủ, Vừng nguyệt ba canh bóng quế cao. Gương đã lạnh lùng mờ cẩm trướng, Châu còn thánh thót quẹn lá bào. Khá thương tiết ngọc gan vàng ấy, Tôi Hán ngồi xem,

Rau cải

Thơ   •   10.11.2021
Nhà ta có cải vãi nơi nương, Đất phúc sinh thành của lạ dường! Áo đã tương xanh, tương thức lục, Đầu chăng đội bạc, đội hoa vàng! Ba đông xuân sắc nhân chưng tuyết, Một tiết âm nhu chẳng quản sương. Bàn bạc chua cay, đòi miệng thế, Miễn là đỡ được th

Giới nho sĩ

Thơ   •   10.11.2021
Kềnh kềnh áo bá lẽn khăn sa, Trường ốc hôm mai để lễ nhà. Lạnh lẽo đường thu như án tuyết, Nắng sương mấy phút lọn hài hoa. Tài cao hơn nữa Công Tôn sách, Sự thịnh còn truyền Ninh Thích ca. Bút mực chẳng quên bề chí lũ, Lộc cao sao khéo lỡ người ta.

Tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn

Thơ   •   10.11.2021
Chẳng còn nhớ đến khúc Nghê thường, Một phút chiêm bao một phút thương. Thuở động ngày chầy xuân vắng vẻ. khi người đường cách nguyệt mơ màng, Đất nhiều cỏ ngọc ngàn xanh biếc, Nước có hoa đào sóng ngát hương. Gió thổi đèn tàn thêm lạnh lẽo, Thân này

Canh ba (II)

Thơ   •   10.11.2021
Đến ba canh ban trống ba, Trên không lác đác tuyết bay hoa. Cửa doanh liễu kín khăng khăng đóng, Thuyền bãi lau kề dặng dặng ca. Thiết thạch lòng bền chăng nỡ trễ, Quan san đường viễn ngại chi qua. Chín trùng nằm miễn yên giấc, Nước đã yên, lọ hỏi nh

Bờn trăng

Thơ   •   10.11.2021
Thế giới đông nên mọc một vầy, Lòng tham thanh lạ hết cây. Sông Ngân Hán phẳng đi về lẩn, Cung Quảng Hàn cao ăn ở chầy. Cấm, cũng nép sau thu giá, Ngăn, thì bay trước rẽ mây, Bốn mùa cùng rạng, thu thêm nhẵn, Dường ấy âu là có ý tây.

Điếu trạng nguyên Lương Thế Vinh

Thơ   •   10.11.2021
Chiếu thư thượng đế xuống đêm qua, Gióng khánh tiên đài kịp tới nhà. Cẩm tú mấy hàng về động ngọc, Thánh hiền ba chén ướt hồn hoa, Khí thiên đã lại thu sơn nhạc. Danh lạ còn truyền để quốc gia. Khuất ngón tay than tài cái thế, Lấy ai làm trạng nước N

Lại vịnh cảnh mùa xuân

Thơ   •   10.11.2021
Từ thuở Đông hoàng chịu lấy quyền, Thiều quang làm cảnh rạng xuân thiên. Đường hoa chấp chới tin ong dạo, Dặm liễu thung thăng sứ điệp truyền. Ả Nguỵ, nàng Diêu khoe đẹp đẽ, Người thơ, khách rượu rộn mời khuyên. Nam nhi kịp thuở trong khi ấy, Diễu ng

Thánh Gióng

Thơ   •   10.11.2021
Tinh anh dấu được khí kiền khôn, Thiên tướng vang lừng tám cõi đồn. nghe tiếng Hùng vương bẻn nảy việc, Mảng danh, nghịch tặc đã kinh hồn. Vợt vàng ngựa sắt hằng di để, Làng Gióng non Trâu miếu hãy còn. Tự điển trời nam ngôi đệ nhất, Âm phò quốc thế

Cây thông

Thơ   •   10.11.2021
Tán xanh ngột ngột rợp hư không, Qua mấy trăm thu thuở bão bùng. Tiết cứng chẳng kinh sương tuyết bén, Tài cao dưỡng để miếu đường dùng. Kì Viên giống lạ nào so kịp ? Dữ Lĩnh danh thơm dễ sánh cùng ? Ngượng thấy tam công đeo chức trọng. "Đại ph

Khi bảng vàng đề tên

Thơ   •   10.11.2021
Thưa sách đan trì ai bén chiêu, Bảng vàng mừng đã thấy tên treo. Thấp cao vòi vọi chen hàng nhạn, Trên dưới làu làu hiện vẻ beo. Thoáng đến mấy tầng Bồng đảo lạ, Kẻ âu ba đợt Vũ môn nghèo. Bảng này chẳng phụ danh đồn dậy, Thấy hậu sinh còn nhiều kẻ

Giới quan liêu

Thơ   •   10.11.2021
Điêu đương ngàn ngạn áo hồng sa, Mừng chịu ơn phong xuống tới nhà. Tán rợp bóng hoè che mặt ngọc, Hương ngưng dặm liễu đượm hài hoa. Tiệc vây la ỷ người sum họp, Nhạc vỡ cầm tranh tiếng dõi ca. Phú quý nhìn xem yêu hết tấc, Máy nghèo sao khéo hãm ngư

Vịnh cảnh mùa hè (I)

Thơ   •   10.11.2021
Thức xuân một khí hãy còn khoe, Phút đã nam ngoa đến tiết hè. Đằng đẵng ngày chầy giương tán nắng, Đùn đùn bóng rợp phủ màn hòe. Khúc hòa Ngu Thuấn đàn cầm ngọc, Chức thẳng Hi Hòa cửa sổ the. Trong ấy vây nên cờ một cuộc, Khéo đâu vang tiếng cái ve v

Bơi thuyền ở Trà Thượng

Thơ   •   10.11.2021
Nhè nhẹ thuyền ai bến liễu dời, Lam am nghìn dặm nhuộm da trời. Toán ngày con nước, chèo lan gác, Đối bữa cơm chay, chén cúc phơi. Khói tĩnh đan hà màu tía rạng, Mây lồng bích thụ thức xanh hơi. Giang san nơi chốn, chơi đòi chốn, Sập cửa mui nằm má

Hoàng Giang điếu Vũ nương

Thơ   •   10.11.2021
Ngàn lau san sát, cỏ xanh xanh, Sảy nhớ ngày xưa kẻ tiết trinh. Cách trở bấy lâu hằng giữ phận, Hiềm nghi một phút, bỗng vô tình... Hay lòng, phó mặc vầng cao thẳm, Lẻ bóng tìm nơi chốn vắng thanh. Dầu nhẫn ai ai qua đến đấy, Thương nàng hoà lại trác

Trăng đêm ở Liên Khê

Thơ   •   10.11.2021
Vách cách hai ngàn đóa khói thâu, Dòng xanh nguyệt hiện, thấy cơ mầu. Càng sực nức, hương đeo quế, Sóng lênh lang, ngọc chứa bầu. Miệng Thái Chân cười ngừng má phấn, Bãi Tây Hồ rộng giỡn chân câu. Kìa ai hơ hải thuyền ngư ẩn, Dặng dặng ca một tiếng đ

Tứ thú cùng nhau nói chuyện

Thơ   •   10.11.2021
Đêm rượu, ngày rồi, họp bốn người, Cùng bày sở thú bảo nhau chơi. Con trâu tớ béo, cơm người trắng, Đon củi ngươi nhiều, cá tớ tươi. Gặp thuở thái bình, ngươi mến tớ, Chứa lòng ưu ái tớ cùng ngươi Cắp cầm, con Tuyết tình cờ đến, Bỏ nón, lùi chân khặc

Hoạ vần bài Vịnh trăng (IX)

Thơ   •   10.11.2021
Mây mây móc móc nhẫn vô tình, Vằng vặc trăng càng tiết sạch thanh. Lo thuở thủy triều dâng thảy thảy. Tỏ khi điêu đẩu đếm canh canh. Bạc in con ruộng manh tơi cũ, Vàng lọn ông câu lá non xanh, Dại dột việc gì say bắt bóng, Khá cười khá tiếc gã Canh

Canh năm (I)

Thơ   •   10.11.2021
Canh chầy đèn hạnh lâm dâm, Xao xác lậu canh trống điểm năm. Nguyệt đầu non treo chếch chếch, Sương mặt đất ướt đầm đầm. Rừng khuya bố cốc còn khua gióng, Làng nọ nông phu đã thức nằm. Bóng ác rạng đông, trời đã sáng, Tiếng gà sôi nổi, tiếng hàn châm

Nhà dột

Thơ   •   10.11.2021
Lều tiện ba gian trả nắng sương, Thấy trời dòm xuống, biết trời thương. Dồi dào đã được nhờ ơn nước, Soi tới càng thêm tỏ bóng gương. Đêm có ả trăng làm bạn cũ, Ngày thì dì gió quét bên giường. Lại còn một vẻ thanh quang nữa, Ngọc lộ đầy mâm để uống

Hoạ bài “Người chăn trâu”

Thơ   •   10.11.2021
Ngày còn sớm, chửa xay om, Gã mục dè chân đã tới nom. Bạn xúm nội bằng, cười khặc khặc, Trâu về ngõ hẹp, cỡi khom khom. Tiếng ca Nịnh Thích kề tai ngóng, Khúc địch Hoàn Y nghển cổ nhòm. Còn có nơi nào vui thú nữa: Gái trai cùng họp một đầu mom.

Chó đá (II)

Thơ   •   10.11.2021
Lần kể xuân thu biết mấy mươi, Cửa nghiêm thăm thẳm một mình ngồi. Đêm thanh nguyệt dãi màng trông nguyệt, Ngày vắng ruồi bâu biếng ngáp ruồi. Cắn kẻ tiểu nhân, nào đoái miệng ? Chào người quân tử, chẳng phe đuôi. Phỏng trong sức có ngàn cân nặng, Dầ

Cây đánh đu

Thơ   •   10.11.2021
Bốn cột lang, nha cắm để chồng, Ả thì đánh cái, ả còn ngong. Tế hậu thổ, khom khom cật, Vái hoàng thiên, ngửa ngửa lòng. Tám bức quần hồng bay phới phới, Hai hàng chân ngọc đứng song song. Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy, Nhổ cột đem về để lỗ không.

Cuối xuân nơi đất khách

Thơ   •   10.11.2021
Hoa bay nước chảy cũng vô tình, Gió quyến xuân đưa đến Sở Thành. Hồ điệp mơ màng nhà mấy dặm, Tử quy khắc khoải nguyệt ba canh. Thư nhàn dễ cách, lòng nên bạc, Tóc tuyết khôn cầm thức lại xanh. Nẻo ấy chẳng về, về ắt được, Năm hồ cảnh vắng có ai tra

Tổng kết tám cảnh Tiêu Tương

Thơ   •   10.11.2021
Một đỉnh thanh quang mở chợ xuân, Ngư thôn tịch tịch chiếu hồng luân. Vãn chung pha khói lừng kim giới, Mộ tuyết rây hoa lạt thủy tân. Mưa tưới đêm thâu khơi ánh ngọc, Nguyệt soi thu rạng dãi bầu ngân. Bình sa nhạn tới thêm kì lệ, Buồm khách xa về th

Chức Nữ nhớ Ngưu Lang (I)

Thơ   •   10.11.2021
Một mình vò võ chốn Hà đông, Nhớ khách đầy vơi luống những trông... Gối ngọc giấc màng êm lưới đệm, Thoi vàng tay ngại mắc trên không. Đêm thanh lần tưởng hai phương nguyệt, Ngày vắng buồn xem một dải sông. Gẫm thấy một thu là một họp, Còn hơn kẻ chự

Mưa đêm ở Tiêu Tương

Thơ   •   10.11.2021
Nhàn Tương thuở rụng hạt mưa, Lã chã thâu đêm gió đưa... Trút tiếng vàng, cao lại thấp, Rung cành ngọc, nhặt thì thưa. Đành hanh tai khách nằm chăng nhắp, Lai láng lòng thơ hứng có thừa. Sớm dậy xem rồng mọc cháu, Nghìn hàng chổng, lạ hơn xưa!

Cái đó

Thơ   •   10.11.2021
Mưa một trận dẫy ngòi hoa, Quyền nẩy cho đi trấn cõi xa. Sấu vươn lưng ngang suối biếc, Rồng há miệng đớp doành la. Lòng không lồng lộng người xem thấy, Đường lợi nhao nhao nước chảy qua... Ơn chúa biết tài, hay cắt đặt, Duyên ra, cá nước khắp hòa nh

Mấy mầm liễu đỏ một thuyền chài

Thơ   •   10.11.2021
Hai ba ngọn, một điểm mưa, Một chiếc thuyền chài diễn nước đưa. Khuất cụm câu buông cần nhè nhẹ. Kề hoa mui ngỏ cửa thưa thưa. Với then phong nguyệt mùa mùa đủ, No miếng ngư hà bưa bữa thừa. Mựa nói giang hồ yên mỗ thú, Chạnh lòng ngụy khuyết tiếng c

Cây mai

Thơ   •   10.11.2021
Trội cành nam chiếm một chồi, Tin xuân mãi mãi điểm cây mai. Tinh thần sáng, thuở trăng tĩnh, Cốt cách đông khi gió thôi. Tiết cứng trượng phu thông ấy bạn, Nết trong quân tử, trúc là đôi, Nhà truyền thanh bạch dăng từng khối, Phỉ xứng danh thơm đệ

Buổi chiều trông ráng mây đỏ

Thơ   •   10.11.2021
Trước đông rỡ thoáng ngàn tiên, Ban tối cây lồng khuất cửa thiền. Lẻ tẻ đầu non người quẩy củi, Lao xao cuối bãi khách về thuyền. Mõ vang cốc cốc bên kia bến, Chuông đóng coong coong mái nọ chiền. Năm thức hồng vân, kìa đế sở, Thân sơ hương hỏa có nh

Màn hoè

Thơ   •   10.11.2021
Trời hè đằng đẵng thuở ngày chầy, Rợp rợp màn hòe bóng mới xoay. Chói chói hoa vàng đưa gió, Đùn đùn tàn lục giương mây. Trong nhà tể tướng: sum họp, Ngoài cửa công hầu: chật vây. Thêm có cầm ve dặng dõi, Khiến người hóng mát động niềm tây.

Con muỗi

Thơ   •   10.11.2021
Muỗi hỡi mi sinh giáp tí nào? Đêm đêm lẻn đến cửa phòng tao ? Ngày thì đủng đỉnh bên lầu ngọc, Hôm đã thung thăng tiểu má đào. Ghẹo Hằng Nga khi nguyệt hiện, Trêu Thần Nữ thuở chiêm bao. Canh khuya lần quất làm cho nhọc, Châm đốt ngoài da có xuể nao!

Vịnh người chăn trâu (II)

Thơ   •   10.11.2021
Nẻo ra thì có phu đồng bộc, Song viết ai bằng song viết mục ? Nhật nguyệt đôi vầng tấm nón nan, Giang san ngàn dặm một rò trúc, Sách xưa Hề, Thích thấy còn truyền, Đời thịnh Thuấn, Nghiêu mừng ấy phúc, Lục lõi tự nhiên sinh sản nhiều, Thái bình tay v

Ngã ba sông

Thơ   •   10.11.2021
Dòng tuôn ba ngả lạ dường bao! Bát ngát đòi phen mặt bích đào. Phá phá ngàn kia lùa ngột ngột, Phè phè bãi nọ rửa tanh tao. Cá ăn mặt nước tan vầng thỏ, Triều rẽ đầu non lụt bóng dao. Xẩy thấy một thuyền trong thuở ấy, Dường như ngư phủ lạc nguồn Đà

Tiên nữ tiễn Lưu Nguyễn (I)

Thơ   •   10.11.2021
Khách hỡi, chào ai kíp nỡ từ ? Xui người bát ngát phải nên đưa. Dùng dằng động ngọc vừa khi sớm, Dìu dặt làng hoa nhẫn khắc trưa. Đường khách dặm ngàn chàng hãy lại, Chăn loan nửa bức thiếp còn chờ. Non xanh nước biếc khi lành lạnh, Cũng chớ cho hay

Hoa sen

Thơ   •   10.11.2021
Chẳng bợn tri trần mảy mảy hơi, Luận bề thanh quý tót xa vời. Nõn nà sắc nước nhờ duyên nước, Ngào ngạt duyên trời nức dặm trời. Gấm Chức dong tơ, khuây cửi mắc, Gương Hằng ngắm bóng, ngại trâm cài. Dao Trì lần thấy triều đi rước, Hớn hở Thai minh vậ

Ngưu Lang từ biệt Chức Nữ

Thơ   •   10.11.2021
Giã người cho khách lại Hà tây, Khôn xiết nguồn cơn nỗi đấy đây. Bát ngát mặt ngừng chan giọt ngọc, Dùng dằng chân ngại bước đường mây. Băng trông cầu Thước sầu thêm chất, Đoái thấy doành Ngân thảm dễ xây. Chầy kíp hẹn lành tin lại hợp, Thu sau càng

Canh năm (II)

Thơ   •   10.11.2021
Đến năm canh ban trống năm. Buồng lan đèn hạnh đã lâm dâm. Mơ màng bóng nguyệt kề song xế, Thánh thót chày thu cách nước đâm. Người thức lầu hồng còn bịn rịn, Ngựa quen đường tía đã lăm chăm. Chín trùng khi ấy ban chầu đã, Vô sự dầu ta mặc sức nằm.

Qua đèo Ngang

Thơ   •   10.11.2021
Bãi thẳm ngàn xa, cảnh vắng teo, Đèo Ngang lợi bể, nước trong veo. Thà là cúi xuống, cây đòi sụt, Xô xát trông lên, sóng muốn trèo. Lảnh chảnh đầu mầm, chim vững tổ, Lanh chanh cuối vũng cá ngong triều. Cuộc cờ kim cổ chừng bao nả, Non nước trông qua

Thành cổ

Thơ   •   10.11.2021
Hoa cỏ đành xưa, gốc gốc già, Biết bao thu trải mấy hè qua, Cáo kêu eo éo ban trời tối, Quỉ khóc đìu hiu trận nguyệt tà, Công nghiệp ngày xưa hòn đá dựng, Bá vương nền cũ hạt mưa sa. Khen ai gây đặng thành đô ấy, Ấy của tiên vương, của quốc gia.

Lúc đầu thu ở đất khách

Thơ   •   10.11.2021
Một trận kim phong mới mới vây, Mối sầu kia ắt kẻ làm bây. Trăng kề cửa hay lòng sạch, Gió xuyên rèm tỏ ý tây. Chăn lạnh dậy nương con cháu vắng, Đêm dài ngồi nhẫn khắc canh chầy. Lòng thu bát ngát trong khi ấy, Hầu cắt làm khuây lại chẳng khuây!

Vụng Bàn Than

Thơ   •   10.11.2021
Một vụng Bàn Than vành vạnh tròn, Tư mùa nước chảy chẳng hay mòn. Lòng bòng vó cất bên kia bãi, Đủng đỉnh chày đâm mái nọ non. Cắm, nhổ đầu ghềnh sào mấy cỗi, Nhấp nhô mặt nước đá hai hòn. Ngư ông đưa đẩy khoan thì nhặt, Nhân nhẩn triều lên nước dẫy

Hoạ bài Người kiếm cá

Thơ   •   10.11.2021
Thuyền ai chiếc bé tiếng đà om, Thấy lũ thằng chài đứng vịnh nom. Nửa tấm áo tơi che lủn củn. Một cần câu trúc uốn khom khom. Ngư hà song viết ngày hằng đủ, Bạng duật đôi co thế ngại nhòm. Chờ thuở nguồn Đào tiên lại gặp, Cùng nhau cặn kẽ thuở đầu m

Cái điếu

Thơ   •   10.11.2021
Đã nên danh giá nhất trên đời Kẻ kính người nưng khắp mọi nơi Đầu mũ lưng đai ngồi chểnh chện Lòng sông dạ bể xiết xa khơi Tiếng kêu réo sấm lừng vang đất Hơi thở tuôn mây rẽ ngất trời Một trận ra uy trong nước lộn Ải nam khói tạt bắc chìm hơ

Người bù nhìn (II)

Thơ   •   10.11.2021
Quyền trọng ra uy trấn cõi bờ, Vốn lòng vì nước há vì dưa. Xét soi trước mặt đôi vừng ngọc, Vùng vẫy trên tay một lá cờ. Dẹp giống chim muông xa phải lánh, Dể quân cầy cuốc gọi không thưa. Mặc ai nhảy nhót đường danh lợi, Ơn nước đầm đìa hạt móc mưa.

Chùa núi Phật Tích

Thơ   •   10.11.2021
Ngước mặt trông lên Phật Tích san, Non cao vòi vọi khách phàm gian. Chim bay rặng liễu dường thoi dệt, Nước chảy ao sen tựa suối đàn. Thông bảy tám hàng che kiểu tán, Mây năm ba thức phủ thay màn. Thi nhân rằng có đâu hơn nữa, Cho khách xin làm một b

Điếu trạng nguyên Nguyễn Trực

Thơ   •   10.11.2021
Đời dõi nho tông phát ấp bang, Trong đạo đức, có từ chương. Nối dòng thi lễ nhà truyền báu, Tranh giải khôi nguyên bảng chói vàng. Nam bắc hai triều danh dậy, Phong lưu một cửa họ sang. Từ đường ở đấy niềm tây lạnh, Dấu cũ càng thơm xạ có hương.

Lưu Nguyễn gặp tiên trong động

Thơ   •   10.11.2021
Khói tỏa xanh xanh bóng tịch dương, Cỏ hoa chào khách khéo đưa đường. Mây che cửa chim bay hết, Suối thay cầm tiếng nhặt xoang. Sông có bích đào non nước dẫy, Cõi nhiều hồng hạnh tháng ngày trường. Cánh hoa dầu chẳng người tiên rước, Chó sủa âu là hẳ

Cái quạt

Thơ   •   10.11.2021
Thác ở trong tay tạo hoá quyền, Một mình thờ chúa thuở hè thiên. Lưng mềm yểu điệu mười lăm tuổi, Má điểm yên chi bảy tám khuyên. Dặm liễu đã từng che mặt ngọc, Đường hoa có thuở vẫy người tiên. Tới thu lại thấy yêu đương nữa, Mựa chớ đàn chi thiếp b

Núi goá

Thơ   •   10.11.2021
Hòn đá ai đem đặt giữa đồng, Mĩ miều thiếu nữ lựa người trông. Da dồi phấn tuyết nhuần nhan sắc, Đầu gội mưa xuân sạch bụi hồng. Ngày ngắm gương ô đáy nước, Đêm cài lược thỏ trên không. Tới nay tuổi đã bao nhiêu tá ? Chành chạnh bền gan chửa lấy chồ

Vịnh Trương Lương

Thơ   •   10.11.2021
Phò Hán công nên, liền liện ngơi, Xích Tùng tiên tử, náu tìm chơi. Đền phong khúm núm còn từ bệ, Thành Cốc mơ màng đã tới nơi. Thuyền tếch Ngũ Hồ đênh một lá, Công hơn tam kiệt nhẫn đôi người. Thế gian đâu có thần tiên nhỉ ? Ơ hơ! Ông này sa chước ng

Cái ấm đất

Thơ   •   10.11.2021
Giống nảy đà nên rộng miệng thay, Tiệc hoa bạn ngọc dự ngồi bày. Danh thơm lừng lẫy hương còn nức, Lượng cả thung dung thế ít tày. Họp mặt nhiều người khi chép miệng, Đẹp lòng, nào kẻ chẳng nâng tay ? Hôm mai ninh nước vì nhà chúa, Một bữa cơm ăn chẳ

Động Bạch Nha

Thơ   •   10.11.2021
Một chốn kiền khôn một chốn xuân, Đã dành phong cảnh thú thanh tân. Quanh co nước biếc doành muôn khảm, Chồng chập non xanh đá mấy lần. Quét bụi trần không một sở, Xui lòng khách hứng mười phân. Nhàn nào đấng thánh xem ngày trước, Biết được hư không

Nhớ người xa

Thơ   •   10.11.2021
Sông trong, trăng lạt, vẻ sao thưa, Gác cũ rêu đầy lấp dấu thơ. Mưa tạnh, hoa sầu, chiều lạt mạt, Xuân về én thảm tiếng u ơ. Đèn tàn ruột thắt, hồn xơ xác, Gối chiếc châu dầm giấc ngẩn ngơ. Lá thắm thơ bày, mong bắt chước, Nước xuôi, thơ ngược biết b