Tác giả Anh Thơ - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác
Tác giả Anh Thơ - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác
Nghệ danh: Anh Thơ
Tên thật: Vương Kiều Ân, Hồng Anh
Cuộc đời và sự nghiệp nhà thơ Anh Thơ
Nữ sĩ Anh Thơ (1919-2005) tên thật là Vương Kiều Ân (Vuơng là họ cha, Kiều họ mẹ). Sinh năm 1919 tại Ninh Giang (Bắc Việt). Ông thân sinh là nhà nho, đậu tú tài, làm trợ tá. Vì ông là công chức, thuyên chuyển nay đây mai đó nên con cái thường phải đổi trường luôn. Do đó, Anh Thơ thay đổi tới ba trường (Hải Dương, Thái Bình, Bắc Giang) mà vẫn chưa qua bậc tiểu học. Dù lười học, nhưng rất thích văn chương, tập làm thơ từ nhỏ. Thoạt đầu, lấy bút hiệu Tuyết Anh, rồi Hồng Anh, cuối cùng mới đổi thành Anh Thơ. Từng đăng thơ trên các tuần báo Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ năm, Ngày nay, Phụ nữ, Bạn đường.
Anh Thơ sáng tác từ sớm, năm 17 tuổi với tập Bức tranh quê bà được nhận giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn. Sau đó bà tham gia viết bài cho báo Đông Tây và một vài báo khác.
Bà không được đi học nhiều ở nhà trường, nhưng vốn ham thích văn học từ sớm, và phần nào cũng chịu ảnh hưởng từ gia đình bên ngoại - cũng là một gia đình Nho giáo, mặt khác phải sống cuộc đời tù túng, buồn tẻ của một cô gái lớn lên trong gia đình Nho phong.
Giữa lúc phong trào "Thơ mới" đang diễn ra sôi nổi, Anh Thơ đã tìm đến thơ như một con đường giải thoát và tự khẳng định giá trị của người phụ nữ trong xã hội đuơng thời. Từ 1931, Anh Thơ đã có thơ đăng báo.
Tập thơ đầu - Bức tranh quê (in 1941) - gồm 45 bài, là những cảnh nông thôn được sắp xếp theo trình tự bốn mùa và được miêu tả bằng sự quan sát độc đáo, nhạy cảm. Có thể xem đây là tập thơ mở đầu cho một khuynh hướng riêng trong phong trào Thơ mới: tập trung toàn bộ cảm hứng vào phong cảnh làng quê, làm sống lại vẻ đẹp nghìn đời của nông thôn Việt Nam. Những bức tranh thiên nhiên tưởng chừng như khách quan vô tình này không phải không chứa đựng sự khao khát sống và yêu đương của tâm hồn thiếu nữ muốn thoát ra khỏi sự ràng buộc nặng nề của xã hội đương thời. Trước 1945, bà còn có 1 tiểu thuyết viết về thân phận người phụ nữ (Răng đen, 1943) và 2 tập thơ chung với các tác giả khác (Xưa - 1943 và Hương xuân - 1944.)
Gần đến Cách mạng tháng Tám, Anh Thơ tham gia Việt Minh năm 1945, từng là Bí thư huyện Hội phụ nữ 4 huyện thời đó: Việt Yên, Lục Ngạn, Bắc Sơn, Hữu Lũng (tỉnh Bắc Giang), ủy viên thường vụ Tỉnh hội phụ nữ hai tỉnh Bắc Giang và Lạng Sơn. Thơ của bà thời gian này nói nhiều đến tâm tình và hình ảnh người phụ nữ ở hậu phương, nhất là người phụ nữ cán bộ đã anh dũng vượt lên đau xót, mất mát và xa cách, gánh chịu những hy sinh thầm lặng, góp phần vào thắng lợi của dân tộc.
Trong những năm chống Mỹ, Anh Thơ mở rộng đề tài và cảm xúc trong thơ của mình, nói đến những nét đẹp của cuộc sống mới, chủ nghĩa anh hùng của con người Việt Nam, nhất là người phụ nữ bình dị
Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1957), ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa 1 và 2).
Từ năm 1971 đến năm 1975 bà làm biên tập viên tạp chí Tác phẩm mới. Bà cũng là ủy viên Thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.
Bà mất tại Hà Nội do bệnh ung thư phổi. Nhà thơ Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết: "Khi chị đến thì phong trào Thơ mới đã ổn định với các tên tuổi tiêu biểu của nó, nhưng chị vẫn có đóng góp riêng: những bức tranh thôn quê xứ Bắc. Cùng với Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân... Anh Thơ làm giàu thêm lòng yêu quê hương làng nước của người Việt Nam mình".
Những cảnh quê như:
"...Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay..."
(Sang thu)
hay
"...Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời..."
(Chiều xuân)
sẽ còn tiếp tục được yêu mến. Ngoài thơ, tập Hồi ký Anh Thơ của bà cũng được đánh giá cao trong thể loại hồi ký.
Đã xuất bản:
- Bức tranh quê (thơ, NXB Đời nay, 1941)
- Xưa (thơ, hợp tác với Bàng Bá Lân, NXB Sông Thuơng, 1941)
- Răng đen (tiểu thuyết, NXB Nguyễn Du, 1942)
- Hương xuân (thơ, in chung, 1943)
- Kể chuyện Vũ Lăng (1957)
- Theo cánh chim câu (1960)
- Đảo ngọc (1963)
- Hoa dứa trắng (1967)
- Mùa xuân màu xanh (thơ, 1974)
- Quê chồng (1977)
- Lệ sương (thơ, NXB Hội nhà văn, 1996)
Giải thưởng:
- Giải khuyến khích về thơ của Tự lực văn đoàn năm 1939 với thi phẩm Bức tranh quê
- Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật
Anh Thơ,Thơ Anh Thơ,Nhà thơ Anh Thơ
Chuyện vợ chồng người sĩ quan tên lửa quê Uy-nổ
Bữa liên hoan tỉnh uỷ khu giải phóng
Con cháu về, con cháu lại ra đi
Nỗi nhớ chúng con manh xanh theo thời gian
Ở vườn thực vật Clouj tôi muốn nói...
Từ quê xưa ánh điện sáng quê này
Ghi anh lính nguỵ đánh ở Nam Lào