Tác giả Đồng Đức Bốn - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác
Tác giả Đồng Đức Bốn - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác
Nghệ danh: Đồng Đức Bốn
Tên thật: Đồng Đức Bốn
Cuộc đời và sự nghiệp nhà thơ Đồng Đức Bốn
Nhà thơ Đồng Đức Bốn (30/3/1948 - 14/2/2006) được sinh ra trong một gia đình lao động nghèo ở ngoại ô Hải Phòng. Năm 1966, ông gia nhập lực lượng Thanh niên xung phong. Sau đó, ông làm thợ cơ khí (bậc 6 trên 7) tại Xí nghiệp Cơ giới của Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng (Hải Phòng), Xí nghiệp Cơ khí 20-7 rồi Công ty Xuất nhập khẩu gia cầm Hải Phòng. Ông được làm đại diện cho công ty này tại Hà Nội và bắt đầu sáng tác thơ vào cuối những năm 1980, rồi trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Nhà thơ Đồng Đức Bốn mất ngày 14 tháng 2 năm 2006 tại nhà riêng ở thôn Song Mai, xã An hồng, huyện An Hải, Thành phố Hải Phòng khi ông 58 tuổi bởi bệnh ung thư phổi.
Đồng Đức Bốn có nhiều đóng góp quan trọng trong thể loại thơ lục bát. Thơ lục bát của ông với cách ngắt nhịp, dùng từ và rất giàu hình ảnh với tứ thơ sâu sắc đã chinh phục được bạn đọc.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhận xét về thơ của ông là trong khoảng 80 bài thơ, có khoảng 15 bài thơ cực hay, tài tử vô địch.
Phong cách sáng tác
Nhà thơ Đồng Đức Bốn nổi danh với lục bát. Rất nhiều câu thơ của ông đã tách ra khỏi thi phẩm để có một đời sống gần như độc lập.
Lục bát Đồng Đức Bốn, cứ hai câu một, đã găm thẳng vào trí nhớ người đọc. Và ông có rất nhiều cặp hai câu xuất sắc như thế:
"Đừng buông giọt mắt xuống sông
Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm";
"Cánh hoa sắc một lưỡi dao
Vì yêu tôi cứ cầm vào như không";
"Cầm lòng bán cái vàng đi
Để mua những thứ nhiều khi không vàng";
"Tôi thường đi trên lưỡi dao
Tay cầm cơn bão mang vào cho em."
Có hai mảng đề tài lớn trong thơ Đồng Đức Bốn, đó là đề tài tình yêu và nông thôn.
Lục bát về thôn quê của Đồng Đức Bốn có nhiều chất liệu quen thuộc mà những tác giả đi trước viết về nông thôn đã từng dùng như: chợ chiều, trâu bò, đê, hoa dong riềng, bồ kết, giếng đình, trúc xinh…nhưng cũng có những chất liệu thật độc đáo chưa từng ai sử dụng, chẳng hạn quần bò, mũ cối:
"Nhà quê có mấy trai tơ
Quần bò mũ cối giả vờ sang chơi"
(Nhà quê)
Nhưng Đồng Đức Bốn không chỉ có lục bát về nông thôn. Ông còn có nhiều bài, nhiều câu lục bát rất hay về phố phường, thành thị. Một loạt cái tên phố, tên đường, tên địa danh thuộc Hà Nội đã đi vào thơ ông như: Hồ Tây, phố Huế, Bà Triệu, Chương Dương, Thụy Khuê, Tây Hồ, Ngọc Hà, Quán Thánh, ngõ Cấm Chỉ, ngõ Tạm Thương… Và trong rất nhiều những cái tên vừa kể ra ấy đã vụt thành những câu thơ ấn tượng, có khi như một xuất thần, là một nỗi bơ vơ lãng du ngơ ngẩn của chàng thi sĩ lãng tử:
"Bụi bay trắng dốc Ngọc Hà
Có ai thương bụi như là tôi không"
(Nhớ Thụy Khuê),
"Xong rồi chẳng biết đi đâu
Xích lô Bà Triệu ra cầu Chương Dương"
(Đi Xích lô đường Bà Triệu)
Có một bài lục bát xuất sắc của Đồng Đức Bốn chưa kịp đưa vào hợp tuyển ngàn trang Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc. Đó là bài Mẹ ơi, cũng là bài thơ cuối cùng của đời thơ Đồng Đức Bốn:
“Bây giờ con chẳng có gì
Cúi đầu lạy mẹ con đi về trời
Chỉ xin mẹ một tiếng cười
Và câu hát thuở mẹ ngồi ru con
Chỉ mong trái đất vẫn tròn
Biết đâu mẹ lại gặp con có ngày”
Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã có một nhận xét tinh tế về Đồng Đức Bốn, đó là “một hồn thơ lãng đãng phiêu du, như tiếng chim gù vọng lại của một mù sương không rõ ngày tháng năm nào”. Lục bát của Đồng Đức Bốn, như bài Mẹ ơi vừa dẫn, là dòng nước ngọt ngào ân tình chỉ cần đọc một lần đã thấm mãi vào hồn ta…
Nhiều người đã chọn lục bát, nhưng để được lục bát chọn thì không nhiều. Và Đồng Đức Bốn là một trong số ít những người được lục bát chọn, làm thơ như một bản năng trời cho.
Nhà thơ Bùi Kim Anh nói về Đồng Đức Bốn
"Đồng Đức Bốn - Đa đoan lục bát gọi nhau"
(Báo Tổ Quốc) - "Đột nhiên nhắc đến Đồng Đức Bốn, tôi cơ hồ như có một hạt bụi rơi vào mắt mình, cái cay xè cũng nhạt nhòa, mà cái xót xa cũng nhạt nhòa.
Cái dáng khệnh khạng của Đồng Đức Bốn đã bước qua cõi thơ và ngả bóng thật buồn lên ký ức bè bạn. Cái lưng to bè của Đồng Đức Bốn đã khuất dần cõi người và để lại những câu thơ lục bát gập ghềnh nỗi đa đoan. Tôi kết giao và tri âm với Đồng Đức Bốn từ CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA của anh. Mỗi lần Bốn lên Hà Nội để gặp gỡ mọi người thường rẽ qua nhà tôi chơi, hoặc gọi điện thoại từ đâu đó rủ đi uống café, uống bia. Cùng với Bốn còn có anh Xuân Cường là họa sĩ và nhà thơ.
Ba anh em chúng tôi gặp nhau khi nhà tôi, khi nhà anh Xuân Cường, khi hàng quán. Chẳng mấy ai biết đến tình bạn của anh Xuân Cường và tôi với Đồng Đức Bốn. Khi đó Bốn lặng lẽ hơn, thơ Bốn chưa được biết đến nhiều lắm. Khi đó Bốn chưa có nhiều tiền. Anh Xuân Cường thường rủ Bốn ăn cơm ở nhà. Tôi đưa cho Bốn chiếc xe đạp mifa của mình để Bốn đi đến các tòa soạn, đến với giới văn chương. Khi đó gia đình Bốn gặp nạn. Tôi và anh Xuân Cường và một số bạn bè khác đã bên Bốn chia sẻ và các giúp đỡ những gì có thể.
Sau này Bốn viết nhiều lên, Bốn nổi tiếng nhiều lên, Bốn cũng khá giả lên về kinh tế. Những lần lên Hà Nội của Bốn nhiều lên và cũng đôi lần nhớ đến thì gọi tôi lại một quán nào đó cùng với người nào đó. Bốn đã khác - ồn ào, hay văng tục, đeo đồng hồ, nhẫn vàng to tướng, dùng 2, 3 điện thoại đắt tiền. Người ta bàn luận quanh những vật ngoài thân ấy.
Nhưng tôi đã lùi ra xa hơn. Lùi ra và để đọc thơ Bốn trong tĩnh lặng.
Viết về Đồng Đức Bốn khi anh không còn trên thế gian nữa, tôi ngồi đọc rất nhiều bài liên quan đến Đồng Đức Bốn. Những lời khen thơ của anh khá bay bổng. Những lời nhận xét lối sống của anh khá sôi nổi. Với tôi và cả các con tôi thì vẫn là yêu thích thơ lục bát của Đồng Đức Bốn. Thế thôi. Nhưng những gì tôi cảm nhận được đọng lại trong tôi. Thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay.
Có một bài viết của ai đó khi viết về thơ anh có nhắc tới ý này. Thơ lục bát của anh hay, nhiều câu hay nên có lẽ chẳng cần tìm câu dễ dãi. Anh nhận mình là kẻ mượn bút của Trời. Có người cho rằng anh kiêu ngạo. Có người nói là trời cho anh những câu thơ hay. Sao Trời lại chọn Đồng Đức Bốn nhỉ?
Tôi yêu thơ lục bát và từ hồi sinh viên đã chọn ca dao làm đề tài viết luận văn tốt nghiệp. Nhưng tôi sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Rất hư ảo trong tâm hồn tôi là hình ảnh làng quê. Rất thiếu trong lục bát của tôi hương sắc đồng quê.
Anh cho tôi hình ảnh:
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
4 câu thơ là 4 hình ảnh với 4 cách diễn tả khác nhau. Một kể sự việc. Một nhận xét. Một hình ảnh động. Một hình ảnh tĩnh mà có chuyển động. Không có từ tả âm thanh, sắc màu, nhưng vẫn như có lửa cháy, có gió mang mùi rơm rạ, mùi khoai nướng, có chiều đang dần tàn. Và có một người trong cả 4 câu thơ- người và tâm trạng. Hình ảnh ấy ta thấy bao lần trên cánh đồng mà sao vẫn bâng khuâng.
Tôi gặp trong thơ anh những hình ảnh làng quê qua cách diễn tả rất riêng của anh, rất bất ngờ với tôi chim ngói đi thả bùa mê khắp đồng.
Rồi:
câu thơ nấp ở sân đình
nhuộm trăng trăng sáng nhuộm tình tình đau
nhuộm buồn những hạt mưa mau
thành sao nở trắng vườn cau trước nhà
rồi:
đất nâu tường đã cũ càng
tiếng chim trong bụi tre làng cứ non.
Tiếng kêu mẹ khi đê vỡ trong thơ anh, nỗi lo lắng khi đê vỡ trong thơ anh khiến ta nghĩ đến những làng quê ngập trắng trong lũ lụt mới ngày nào:
Ôi mẹ ơi đê vỡ rồi
Đồng ta trắng xóa cả trời nước trong…
Ôi mẹ ơi đê vỡ rồi
Mộ cha liệu có lên trời được không?
Tôi thích những câu thơ tình của anh. Nó thô mộc như con người anh. Nó mạnh mẽ và thoáng liều lĩnh, thoáng ngang tàng giống anh. Nó được thổ lộ tha thiết mà độc đáo trong cách diễn tả, trong cách vận dụng hình ảnh, ngôn từ cuộc sống quanh anh. Nó bất ngờ với người đọc. Hình như tôi chưa yêu như vậy trong thơ, hay tôi chưa bao giờ bộc lộ được như vậy trong thơ. Cũng có thể vì tôi là phụ nữ chăng.
Sông Thương ngày không em có nhiều câu làm nao nao lòng người con gái. Rồi Đừng buông giọt mắt xuống sông/ anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm. Cứ mỗi lần qua sông, cứ mỗi khi chia ly, lại thấy giọt mắt sao nặng nề, xa xót thế, lại lẩm nhẩm trong đầu câu thơ của Bốn.
Rồi cái hôm em ở với chồng… cùng với xa một ngày bằng triệu mùa đông/ em bỏ chồng về ở với tôi không lại làm bâng khuâng, chạnh lòng bao cảnh tình ngang trái. Bao nhiêu bạn đọc thích bài thơ Trở về với mẹ ta thôi. Cắt ngang trong mạch tình cảm ấy là những câu thơ về tình mẹ với con, về tình con với mẹ, là thân phận con người, là chiêm nghiệm cuộc đời… Đọc mà buồn mà đau ngậm ngùi.
Và rồi một trong những bài thơ cuối của anh để lại cho mẹ, cho đời cúi đầu lạy mẹ con đi về trời… Cho đến lúc này đây, Đồng Đức Bốn đã đi về trời mà câu thơ vẫn như nghẹn lại.
Tôi đọc và ngẫm những câu thơ Bốn suy ngẫm về đời, về thân phận - đọc trong tâm trạng của người cũng trải qua bao nỗi đời, tâm trạng của người làm thơ cũng nặng lòng suy tư. Nào Chín xu đổi lấy một hào để đắng cay thì ngậm xót chua thì cầm. Nào Vào chùa để được một lá bùa và ăn mày nhét túi lại đi ăn mày.
Nhiều câu thơ khác, với những cách diễn tả khác nhưng ý tứ xa xôi mà cũng có liên tưởng gần gũi:
Còng lưng gánh chịu gió mưa
Nát chân tìm cái chửa chưa có gì
Cầm vàng bán cái vàng đi
Để mua những cái nhiều khi không vàng
Sống gần tới phút chia tay
Tỉnh ra mới thấy đời này rỗng không.
Chợ buồn, Đời tôi, Con sáo sang sông, Đường đi, Em là lục bát của tôi… và trong nhiều bài thơ khác, đều chứa những câu đau đáu về phận làm người.
Đấy là một lời an ủi quen dùng và sự thật trong đời:
Bảo rằng khổ trước sướng sau
Mà trăm năm vẫn thấy nhau bọt bèo
Đấy là bao nhiêu nỗi đau mà tưởng kêu lên, khóc đi thì vợi:
Bao nhiêu là giọt mắt rơi
Làm mưa chứ chẳng làm trời nổi giông
Đã đành nói như Đồng Đức Bốn "Mỗi người có một cõi riêng" mà đọc lục bát của anh cứ ngẫm ngợi và day dứt. Lời anh buông ra, thơ anh buông ra dù lời yêu hay lời chua xót cũng tự nhiên, giống như con người anh, nhiều khi tiếp xúc cũng thấy nó tự nhiên như vậy. Anh chẳng làm duyên trong thơ mà lục bát của anh thật có duyên.
Tôi học anh cái không cần bằng bằng xuôi xuôi đúng luật trong thơ - cuộc sống, cuộc đời có phải lúc nào cũng đúng luật đâu. Tôi học anh cách vận dụng hình ảnh, từ ngữ rất thực mà độc đáo, bất ngờ. Nhưng làm sao học được cái tự nhiên, đôi khi đến thật thà mà câu lục bát của Đồng Đức Bốn lại làm ta ngã lòng đến thế.
Bốn nói đến trâu bò thất thểu long đong, tả chiều thành tro, thương mẹ áo nâu vẫn bạc bên nắng chờ, nói tửng từng tưng- sư ra cho một lá bùa rồi đi, nói đến tha thiết- thương em từ bấy đến giờ/ Bàn tay vẫn héo như cờ chịu tang… nghe tiếng quốc kêu - tôi nghe nẫu cả những chiều/ Câu thơ ngã xuống đổ xiêu mái chùa… nghe tiếng chuông chùa tiếng đục tiếng trong/ Thảo nào cát bụi long đong thân cò.
Có người nói Đồng Đức Bốn được những câu thơ Trời cho, còn cả bài thì… 600 bài thơ lục bát của Đồng Đức Bốn cứ từ từ đọc để được những câu lục bát cho mình. Rất có thể thơ anh vang lên trong lòng mỗi người chúng ta khi bất chợt đối diện sự xao xác nhân duyên hoặc khi vô cớ loay hoay sự trắc ẩn ân tình!
Tôi có 3 bài thơ tặng Bốn. Tôi chưa bao giờ đọc và chỉ cho Bốn thấy. In trong các tập dù viết tặng ai, tôi cũng không bao giờ đề tặng nên cũng chẳng ai nhận biết.
Mấy câu này tôi viết khi bắt đầu đọc thơ Đồng Đức Bốn:
đọc câu lục bát của người
tôi đi tìm lại mảnh đời bỏ quên
nửa câu thơ để bên thềm
nửa đời yêu để tình duyên nhạt nhèo
nỗi nhớ quên chẳng mang theo
niềm vui buồn tự cánh bèo nhẹ trôi
bâng khuâng tôi lại tìm tôi
giữa câu lục bát nhịp rơi lỡ làng.
Tôi đến nhà Bốn 3 lần, chẳng có lần nào là theo lời mời của Bốn, trong dịp vui nào của Bốn. Trách Bốn ư? Chưa bao giờ trách Bốn. Vả lại những gì mà Bốn thích - ồn ào, khoa trương - không thuộc tính cách tôi. Tôi là bạn nữ và Bốn cũng thường dành cho tôi sự gặp gỡ ít ỏi, yên lặng ấy.
Lần 1, ở nhà cũ, khi con Bốn hoạn nạn. Lần 2 khi Bốn ốm. Lần 3 đến viếng Bốn. Có 2 lần đi nhờ xe anh Bằng Việt và cùng với anh Bằng Việt và chị Phan Thị Thanh Nhàn. Tôi đến khách sạn Hoa Hồng thăm khi Bốn đang trị bệnh. Lần nào cũng buồn. Buồn không nói được. Buồn về làm thơ viếng bạn.
Để lại nhiều ấn tượng nhất trong tôi là lần thứ 2 về thăm Bốn ốm. Đập vào mắt tôi, lạnh trong tôi là 2 câu thơ gắn vào đá trước nhà. Đập vào mắt tôi là sự lộn xộn dến bừa bãi của những chai rượu, tượng Phật, tượng các cô gái khỏa thân, là những đồ đẹp mà Bốn mua và được tặng. Sao ông lại để như vậy? Vì Bốn ốm hay vì nhiều đồ quá mà không kịp sắp xếp không rõ nữa. Bốn cười mà không trả lời.
Tôi chỉ tự cảm thấy không an lòng, cảm những gì đang đến rất gần cho bạn nên cũng lại không nói nữa. Bốn vẫn nhớ thăm gia đình tôi, nhớ những gì gia đình tôi dành cho Bốn, thăm con gái tôi cũng bị bệnh hiểm nghèo như Bốn và trước Bốn. Hai chú cháu mình cùng chiến đấu. Bốn đã động viên cháu và chính mình như vậy. Hai chú cháu đều rất nghị lực. Bốn vẫn làm thơ. Con gái tôi vừa đi làm vừa chữa bệnh.
Con gái tôi vẫn chiến đấu, còn chú Bốn đã đi về trời.
Xin cho tôi được đọc bài thơ viếng Đồng Đức Bốn năm đó để thay cho lời kết:
Chuông nào đánh chẳng ngân nga
biết tìm đâu gió đâu mưa
biết tìm đâu cái ngày xưa bây giờ
phải là duyên nợ tình thơ
mà câu lục bát thẫn thờ cơn mê
mặc người nơi cánh đồng quê
mặc ta ngơ ngẩn chiều tê tái lòng
qua cầu lại thương dòng sông
khát con nước chỉ dám trông vào trời
vội chi tính bỏ cuộc chơi
để câu lục bát cho người sang trang
vội chi lỡ kiếp đa mang
câu thơ dở phố dở làng dở yêu
gánh gồng trong cuộc phiêu diêu
quẳng đi lăn lóc mọi điều buồn vui
dẫu tha thiết dẫu ngậm ngùi
tử sinh âu cũng mệnh trời số ta
chuông nào đánh chẳng ngân nga
phải chuông chùa tiếng mới nhòa khói mây".
(Nguồn đã dẫn).
Tác phẩm nổi bật
- Con ngựa trắng và rừng quả đắng (NXB Văn học, 1992)
- Chăn trâu đốt lửa (NXB Lao động, 1993)
- Trở về với mẹ ta thôi (NXB Hội nhà văn, 2000)
- Cuối cùng vẫn còn dòng sông (NXB Hội nhà văn, 2000)
- Chuông chùa kêu trong mưa (2002)
- Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (2006)
Thơ Đồng Đức Bốn,Nhà thơ Đồng Đức Bốn,Thơ lục bát,Đồng Đức Bốn
Rượu ngon uống một mình không cạn
Con ngựa trắng và rừng quả đắng
Em bỏ chồng về ở với tôi không?
Trở về với mẹ ta thôi [Mẹ tôi]
Thơ viết gửi người tình khi tôi chết