Tác giả Hồ Xuân Hương - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác
Tác giả Hồ Xuân Hương - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác
Nghệ danh: Hồ Xuân Hương
Tên thật: Hồ Xuân Hương
Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Xuân Hương - "Bà chúa thơ Nôm"
Hồ Xuân Hương (chữ Hán:胡春香) (1772-1822) là một thi sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Di tác của bà hoàn toàn là thơ, trong đó mảng thơ Nôm chiếm đa số. Thi sĩ Xuân Diệu đã tôn Hồ Xuân Hương làm "Bà chúa thơ Nôm".
Hầu hết thi ca Hồ Xuân Hương theo dòng chảy chung đã thoát được các quan niệm sáng tác cố hữu vốn đề cao niêm luật chặt chẽ để bộc lộ được tiếng nói của thời đại mình, có nhiều người cho rằng đặc sắc của thơ bà là “thanh thanh tục tục”.
Sở dĩ Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa thơ nôm” là vì rất nhiều người thán phục cách sử dụng chữ Nôm của bà. Hai lần mất chồng và thấm thía nỗi đau của những người phụ nữ phải chịu cảnh vợ lẽ nên bà đã sáng tác ra rất nhiều bài thơ thể hiện nỗi xót xa và đồng cảm sâu sắc với số phận của những người phụ nữ lúc bấy giờ.
Hầu hết những bài thơ của bà đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật (tám câu bảy chữ) và thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu bảy chữ).
Một số tác phẩm thơ nôm tiêu biểu của bà là:
- Bà Lang
- khóc chồng
- Bạch Đằng giang
- tạm biệt
- Bài ca theo điệu xuân đình lan
- Bánh trôi nước
- Cảnh làm lẽ
- Cái quạt giấy 1, 2
Trong đó bài thơ “Bánh trôi nước” được rất nhiều thế hệ độc giả yêu thích và được đưa vào sách giáo khoa Trung học cơ sở giảng dạy. Trong bài thơ này Hồ Xuân Hương đã lấy hình tượng bánh trôi nước để biểu tượng cho số phận trọng nam khinh nữ, đa thê thiếp khiến cho người phụ nữ phải chịu biết bao nhiêu cảnh bất hạnh, đau thương, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn trong sáng, tình nghĩa, sắt son của của người phụ nữ Việt Nam.
Ngoài ra bà còn nổi tiếng với rất nhiều sáng tác bằng chữ Hán, tuy nhiên hiện nay chỉ còn lại rất ít bài, tiêu biểu như:
- Hải ốc trù
- Nhãn phóng thanh
- Độ Hoa Phong
- Trạo ca thanh
- Thuỷ vân hương
Theo Wikipedia, văn bản được nhận diện cổ nhất có chép thơ Hồ Xuân Hương là "Quốc văn tùng ký" (國文話記) do Hải Châu Tử Nguyễn Văn San (阮文珊, 1808 – 1883) soạn năm Minh Mệnh thứ 14 (1834), nhưng chỉ vài bài.
Hầu hết di tác của nữ sĩ họ Hồ được gom trong cuốn "Xuân Hương thi tập" (春香詩集), Phúc Văn Đường tàng bản ấn hành tại Hà Nội năm 1930. Trong sách có khoảng 60 bài nhưng lẫn cả thơ của nhiều tác giả khác, nay chưa truy nguyên được tất cả.
Tuy nhiên, văn bản đáng quý nhất là Lưu hương ký (琉香記) với bài tựa của Phan Huy Huân, được học giả Trần Thanh Mại phát kiến và công bố trên thi đàn vào năm 1964. Trước đó không lâu, năm 1962, đã có học giả Trần Văn Giáp đăng trên báo Văn Nghệ (Hà Nội) 5 thi phẩm chữ Hán được cho là của Hồ Xuân Hương.
Nhưng mãi đến năm 1984, học giả Hoàng Xuân Hãn mới dịch nghĩa và đăng trên tập san Khoa Học Xã Hội (Paris), lại đặt nhan đề lần lượt là Độ hoa phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thủy vân hương.
Thơ Hồ Xuân Hương luôn được trình bày theo phong cách thất ngôn bát cú hoặc thất ngôn tứ tuyệt, bút pháp được nhận định là điêu luyện nhưng phần chữ Nôm nhiều phần đặc sắc hơn chữ Hán. Ý tưởng trong thơ cũng rất táo bạo, dù là điều cấm kị đối với lễ giáo đương thời.
Cho nên, Hồ Xuân Hương được xem như hiện tượng kỳ thú của dòng thi ca cổ điển Việt Nam khi tích cực đưa ra cái nhìn đối lập với truyền thống đạo đức, nhưng không vì thế mà tự trở nên suy đồi. Tựu trung, các di tác phần nào cho phép hậu thế thấy thực trạng tang thương ở thời đại bà sống và cả quá trình mục rữa của nhiều lề lối cũ.
“Tập thơ "Lưu hương ký" mang bút danh của nữ sĩ do ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm. Với một nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ viết về tâm sự và những mối tình của mình với những người bạn trai. Đọc kỹ người ta thấy có một khoảng cách khá xa giữa tập thơ Nôm của Xuân Hương và "Lưu hương ký", chủ yếu là về phong cách biểu hiện. Trong "Lưu hương ký" có cả thơ chữ Hán lẫn thơ chữ Nôm. Riêng phần thơ chữ Nôm trong "Lưu hương ký" nếu so sánh với thơ lâu nay được coi là của Xuân Hương thì hai bên vẫn có sự khác nhau. Thơ cữ Nôm trong "Lưu hương ký" có rất nhiều từ Hán Việt, giọng thơ lại hiền lành chứ không góc cạnh, gân guốc như ở "Xuân Hương thi tập". Vì lý do trên, để bảo đảm tính khoa học, các nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở tập thơ Nôm còn "Lưu hương ký" được coi là một tập thơ để tham khảo.” - Trích giáo trình văn học của Đại học Cần Thơ.
Con người Hồ Xuân Hương phóng túng, tài hoa, có cá tính mạnh mẽ, sắc sảo vì vậy phong cách nghệ thuật của bà rất sáng tạo và đặc biệt vừa thanh vừa tục, kết hợp với nét phóng túng - tiềm ẩn, đậm đà chất văn học dân gian, chính vì thế thơ của "Bà chúa thơ Nôm" luôn gây nguồn cảm hứng vô tận cho hậu thế từ ngôn ngữ cho đến hình tượng.
Đặc biệt, bà còn có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu, tiết tấu thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh với thái độ rất tự nhiên, duyên dáng và giàu khả năng gợi cảm.
Có thể nói Hồ Xuân Hương được coi là hiện tượng " Nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ" độc đáo có một không hai trong văn học Việt Nam. Với tư tưởng mới mẻ cùng lối làm thơ phá cách, ngôn ngữ bình dị và sáng tạo, các tác phẩm của bà đã đem lại nhiều ý nghĩa, giá trị và sức sống lâu bền đến hiện tại.
Lai lịch của "Bà chúa thơ Nôm" Hồ Xuân Hương
Không có bất cứ tư liệu cổ điển nào chép về lai lịch và hành trạng của Hồ Xuân Hương, bà chỉ thực sự được hậu thế biết đến qua sách "Giai nhân dị mặc" (佳人遺墨) của học giả Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, ấn hành tại Hà Nội năm 1916.
Cũng vì cớ đó, việc có hay không một nhân vật tên Hồ Xuân Hương hiện còn là câu hỏi ngỏ. Học giới nhất quán rằng Hồ Xuân Hương sinh vào năm 1772 ở phường Khán Xuân (nay thuộc địa phận công viên Bách Thảo, Hà Nội).
Cũng theo "Giai nhân dị mặc", bà là ái nữ của sinh đồ Hồ Phi Diễn 胡丕演 (1703-1786), người Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An.
Còn theo học giả Trần Thanh Mại, thân phụ của Hồ Xuân Hương là ông Hồ Sĩ Danh 胡士名 (1706 - 1783) cũng người Quỳnh Đôi, là em cùng cha khác mẹ của Kinh Dương hầu Hồ Sĩ Ðống 胡士棟 (1739 - 1785). Thân mẫu của Hồ Xuân Hương là bà lẽ Hà thị 何氏 (? - 1814) người trấn Hải Dương.
Học giả Phạm Trọng Chánh dựa vào tục xướng danh cổ điển và câu tựa “Phi mai xuân sắc nhất kinh thành” (丕梅春色一京成) của Tốn Phong Phan Huy Huân để khẳng định: Hồ Phi Mai 胡丕梅 là nguyên danh, Xuân Hương 春香 là biểu tự và Cổ Nguyệt đường 古月堂 là bút hiệu.
Trong thế cuộc xoay vần đầy nhiễu nhương cuối thế kỷ XVIII, Hồ Xuân Hương vẫn được hưởng những năm tháng ấu thơ êm đềm ở một dinh thự lớn tên Cổ Nguyệt đường ven hồ Tây, bấy giờ là chốn phồn hoa đô hội bậc nhất xứ Đàng Ngoài.
Sau khi mãn tang cha, mẹ bà tái hôn với người khác. Dù ít phải ràng buộc trong gia giáo nghiêm khắc như mọi nữ lưu cùng thời, Hồ Xuân Hương vẫn hội tụ được tư chất thông minh và hiếu học. Hồ Xuân Hương cũng được cưới gả từ rất sớm như mọi con cái trâm anh thế phiệt bấy giờ, nhưng dẫu qua hai lần đò đều không viên mãn.
Ban sơ, bà làm lẽ của một hào phú có biệt hiệu Tổng Cóc. Tổng Cóc vốn là biệt hiệu mà người quen biết đặt cho Chánh tổng Nguyễn Bình Kình, tự Công Hoà. Nguyên quán của ông ở làng Gáp, xã Tứ (nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Ông là cháu của quan nghè Nguyễn Quang Thành, bản thân cũng một lần đi thi Hương nhưng không đỗ đạt.
Sau Tổng Cóc đăng trình, lên đến chức cai cơ nên thường được gọi là Đội Kình. Tuy chỉ là cai lính nhưng Tổng Cóc vốn thuộc dòng dõi văn nhân, ông rất chuộng ca ngâm và mến luôn cái tài làm thơ của người vợ lẽ.
Để chiều lòng bà, Tổng Cóc đã cất một thuỷ tạ rất lớn cho Hồ Xuân Hương ở, vừa tránh phiền luỵ với vợ cả vừa thoả thưởng thi phú. Chung sống với Tổng Cóc được một thời gian khá lâu thì Hồ Xuân Hương dứt áo ra đi với một cái thai.
Có thuyết cho rằng, bà bỏ đi sau khi Tổng Cóc đã đột ngột từ trần; nhưng cũng có thuyết cho rằng bà không chịu được điều tiếng dị nghị của vợ con Tổng Cóc và người làng; lại có thuyết nói bản tính phóng đãng khiến Hồ Xuân Hương khó ngồi yên một chỗ, bà trốn đi cùng tình quân là Phạm Viết Ngạn.
Kết quả của hôn sự này được cho là một đứa trẻ vắn số. Vào ngày Hồ Xuân Hương trở dạ, Tổng Cóc đến đòi đón con về, nhưng người nhà họ Phạm nói lại là đứa bé đã mất khi vừa lọt lòng. Trong hôn sự lần này, Hồ Xuân Hương làm lẽ của Tú tài Phạm Viết Ngạn, bấy giờ tại nhiệm tri phủ Vĩnh Tường.
Nhưng duyên phận chỉ được 27 tháng thì ông phủ Vĩnh Tường tạ thế. Có nhiều thuyết về quãng đời sau đó của Hồ Xuân Hương, như việc bà cưới thêm vài người chồng nữa, việc bà hỏi mượn tiền thi hữu để mở hàng bán giấy bút mực, hoặc giai thoại về các mối tình trăng hoa và văn chương, nhưng mức độ khả tín chưa được xác định rõ ràng. Hồ Xuân Hương được cho là mất vào năm 1822.
Còn theo Phạm gia tộc phả và Triệu tông phả, ông phủ Vĩnh Tường tức là Tú tài Phạm Viết Ngạn (khi thăng chức Đồng tri phủ Phân phủ Vĩnh Tường thì cải thành Viết Lập), tên cúng cơm là Đại, tự Thành Phủ. Nguyên quán của ông ở hương Trà Lũ, xã Xuân Trung, phủ Xuân Trường, trấn Sơn Nam Hạ.
Các tư liệu này cũng cho biết, Hồ Xuân Hương sinh cho ông một người con tên Phạm Viết Thiệu. Ngoài ra, có nhiều giai thoại truyền khẩu về lối sống phong lưu của nữ sĩ họ Hồ, như việc bà là một hoa nương thanh sắc vẹn toàn, và những mối tình bên thơ rượu với Phạm Đình Hổ, Phạm Thái, Nguyễn Du, Phạm Quý Thích, Nguyễn Hầu, Trần Ngọc Quán, Trần Quang Tĩnh, Phan Huy Huân, Mai Sơn Phủ, Thạch Đình, Cự Đình, Thanh Liên...
Một số bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Hồ Xuân Hương
- Thơ Tự Tình ·
- Canh Khuya (Tự Tình II) ·
- Lỡm Học Trò ·
- Đánh Đu ·
- Ốc Nhồi ·
- Quả Mít
- Bánh trôi nước
Nhà thơ Hồ Xuân Hương,Thơ Hồ Xuân Hương,Thơ Nôm,Hồ Xuân Hương
Giang Nam phụ níp kiêm lưu biệt hữu nhân
Dữ Phạm tế tửu xướng hoạ, kỳ nhị
Vịnh xuyên cổ (Vịnh trống thủng)
Sài Sơn thiên thị (Chợ trời núi Thầy)
Quá Nghệ An hoài giai nhân, hựu thể
Câu đối Tết: Tối ba mươi - Sáng mồng một
Ký tao nương Mộng Lan (Gửi nữ sĩ Mộng Lan)
Hàng ư Thanh (Quán hàng ở xứ Thanh)
Phiếm chu ngoạn nguyệt (Giong thuyền chơi trăng)
Miếu Sầm thái thú [Đề đền Sầm Nghi Đống]
Hạ nhật tầm phu (Ngày hè tìm chồng)