Điếu Trương Định bài 03
Thơ
•
Thứ bảy, 27/11/2021, 20:59 PM
Gian truân kể xiết mấy nhiêu lần, Vì nước đành trao một tấm thân. Nghe chốn Lý Nhân người sảng sốt, Nhìn cồn Đa Phước kiểng bâng khuâng. Bát cơm Kê Lữ chi sờn buổi, Mảnh áo Mông Nhung chẳng nệ phần. Chí dốc ra tay nâng vạc ngã, Trước sau cho trọn chữ
Nội dung bài thơ: Điếu Trương Định bài 03
Gian truân kể xiết mấy nhiêu lần,
Vì nước đành trao một tấm thân.
Nghe chốn Lý Nhân người sảng sốt,
Nhìn cồn Đa Phước kiểng bâng khuâng.
Bát cơm Kê Lữ chi sờn buổi,
Mảnh áo Mông Nhung chẳng nệ phần.
Chí dốc ra tay nâng vạc ngã,
Trước sau cho trọn chữ quân thần.
Bài thơ Điếu Trương Định bài 03 của tác giả Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu - 阮廷沼, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu - 阮廷沼
Nghệ danh: Nguyễn Đình Chiểu
Tên thật: 阮廷沼
Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Nguyễn Đình Chiểu - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác
Tác giả Nguyễn Đình Chiểu, Thơ Nguyễn Đình Chiểu
Cùng tác giả: Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu - 阮廷沼
Thơ
•
27.11.2021
Vong linh sớm gặp buổi đời suy Trăm nét cân đo ít lỗi nghì. Bóng bọt hình hài vừa lố thấy, Ngút mây phú quý bỗng tan đi. Sinh năm mươi tuổi ăn chơi mấy, Quan bảy tám ngày sướng ích chi. E nỗi dạ đài quan lớn hỏi, Cớ sao xếu mếu cỏi Ba Tri.
Thơ
•
27.11.2021
Trong Nam tên họ nổi như cồn, Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn. Dấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷ, Hơi gươm thêm rạng thể hoàng môn. Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ, Cái ấn bình tây đất vội chôn. Nỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵ, Lâm dâm ba chữ điếu linh hồn.
Thơ
•
27.11.2021
Biết ơn phụ tử nghĩa quân thần, Nhờ có trời sinh đức thánh nhân. Nét mực tu kinh ngăn đứa loạn Dấu xe hành đạo rạch trong trần. Trong đời còn cám lời than phụng, Muôn thuở đều thương tiếng khóc lân. Phải đặng bút Châu biên sách Hán, Mọi nào dám tới c
Thơ
•
27.11.2021
Chín đời còn thấy vận Cao hoàng, Mặt mũi đâu mà vội dở dang. Dưới suối há ngờ Lưu Cao Đế, Trong thù nào có Lã ma vương. Tranh tranh Hán thất gương còn để, Phủ việt Xuân thu tội ắt mang. Muôn một cũng liều thân với nước, Cớ sao mà chịu ấn nương nương.
Thơ
•
27.11.2021
Gò Công binh giáp ngó chàng ràng, Đoái bắc trông nam luống thở than. Trên trại Đồn Đàn hoa khóc chủ, Dưới vàm Bao Ngược sóng kêu quan. Mây giăng Truông Cóc đường quân vắng, Trăng xế Gò Rùa tiếng đẩu tan. Mấy dặm non sông đều xửng vững, Nạn dân ách nư
Thơ
•
27.11.2021
Sao ra nhảy nhót giữa vòng danh, Son đóng chưa khô ấn đốc binh. Đuốc gió nhẹ xao đường thuỷ thạch, Cỏ hoa ngùi đọng cửa trâm anh, Trên giồng lửa cháy cờ tam sắc, Dưới gảnh đèn lờ bản thất tinh. Dẫu khiến nghe can vùng đất hiểm, Chờ trời nào đến tủi v
Thơ
•
27.11.2021
Lịch sĩ tam triều độc khiết thân, Phi công thuỳ tán nhất phương dân. Long Hồ uổng phụ thư sinh lão, Phụng Các không vi học sĩ thần. Bỉnh tiết tần lao sinh Phú Bật, Tận trung hà hận tử Trương Tuần. Hữu thiên lục tỉnh tồn vong sự, Nan đắc thung dung tự
Thơ
•
27.11.2021
Gian truân kể xiết mấy nhiêu lần, Vì nước đành trao một tấm thân. Nghe chốn Lý Nhân người sảng sốt, Nhìn cồn Đa Phước kiểng bâng khuâng. Bát cơm Kê Lữ chi sờn buổi, Mảnh áo Mông Nhung chẳng nệ phần. Chí dốc ra tay nâng vạc ngã, Trước sau cho trọn chữ
Thơ
•
27.11.2021
Quân thần còn gánh nặng hai vai, Lỡ dở công trình hệ bởi ai? Trăm đám mộ binh vầy lớn nhỏ, Một gò cô luỹ chống hôm mai. Lương tiền nhà ruộng ba mùa trước, Thuốc đạn ghe buôn bốn bể ngoài. May rủi phải chăng trời cũng biết, Một tay chống chỏi mấy năm
Thơ
•
27.11.2021
Lòng hềm kinh sử mấy mươi pho, Vàng ngọc nào qua báu học trò. Hoa trái rừng nhu ra sức hái, Nghê kình biển thánh ráng công mò. Cẩm văn thêu dệt đời đời chuộng, Mùi đạo trau giồi bữa bữa no. Gặp thuở mày xanh siêng đọc sách, Mỗi câu đều hưởng phúc trờ
Thơ
•
27.11.2021
Hỡi ơi! Súng giặc đất rền; Lòng dân trời tỏ. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ. Nhớ linh xưa: Cui cút làm ăn; Riêng lo nghèo khó. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Thơ
•
27.11.2021
Sen hỡi là sen! tiếng chẳng hèn, Thấy sen lỡ vận tiếc cho sen. Ngậm cười gió hạ thơm nhiều thuở, Đua nở hồ thu trót mấy phen. Gương mặt bất phàm đâu đặng biết, Bèo tai vô dụng gọi rằng quen. Phải mà sinh gặp nơi tiên cảnh, Lá rộng cao che khắp các bè
Thơ
•
27.11.2021
Thương ôi! người ngọc ở Bình Đông Lớn nhỏ trong làng thảy mến trông. Biết đạo khác bầy con mắt tục Dạy dân nắm giữ tấm lòng công. Đặng danh vừa rạng bề nhà cửa, Vì nghĩa riêng đền nợ núi sông. Một trận trải gan trời đất thấy, So xưa nào thẹn tiếng a
Thơ
•
27.11.2021
Trải qua nắng hạ lúc mưa thu, Cày cấy ghe phen sức dãi dầu. Ấm lạnh trọn bề vài đám ruộng, Làm ăn giữ bổn mấy con trâu. Chuyên nghề Hậu Tắc nhà hằng đủ, Giỏi việc Mân phong nước chẳng sầu. Nhờ gặp mùa màng trời đất thuận, Cứ trăm giống thóc một tay
Thơ
•
27.11.2021
Mối tơ ai gỡ lúc này xong, Một dải trời Nam biết mấy trùng. Kẻ ứa gan trung trương mắt ngó, Người liều dạ sắt múa tay không. Đến hay trung nghĩa theo tro bụi, Hoài của giang sơn trút biển Đông. Ơn nước, nợ nhà đành có thuở, Biết bao chờ đợi, biết ba
Thơ
•
27.11.2021
Năm dài những mảng ngóng tin vua, Nín nhục thầm toan lẽ được thua. U kế năm hàng còn chỗ đoái, Ngô Tôn trăm chước đợi ngày đua. Bày lòng thần tử vài lời sớ, Giữ mối giang san mấy điệu bùa. Phải đặng tuổi trời cho mượn số Cuộc nầy ngay vạy có phân bua
Thơ
•
27.11.2021
Quái dữ a! Thế sự gẫm ngán trân, người trong cõi dần lân tân khổ; Cuộc đời xem lãng nhách, kẻ dưới trần lạch ạch gian lung. Năm Giáp Thìn hồng thuỷ phát trùng trùng, người thất lạc chẳng còn hoài sự nghiệp; Cơn Ất Tị cào cào sinh điệp điệp, kẻ nông
Thơ
•
27.11.2021
Phân bua trời đất biết cho lòng, Công việc đâu đâu cũng muốn xong. Cám nỗi nhà nghiên lăm chống cột, Nài bao bóng xế luống day đòng. Đồng Nai, chợ Mỹ lo nhiều phía, Bến Nghé, Sài Gòn kể mấy đông. Dẫu biết dùng binh nhờ đất hiểm, Chẳng đành xa bỏ cõ
Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong
Thơ
•
27.11.2021
Hỡi ôi! Tủi phận biên manh; Căm loài dương tặc. Ngoài sáu tỉnh hãy ngợi câu án đổ, dân nhờ vua đặng lẽ sống vui; Trong một phương sao mắc chữ lục trầm, người vì nước rủ nhau chết ngặt! Nhớ các linh xưa: Tiếng đồn trung nghĩa đến xa; Thói giữ cương th
Thơ
•
27.11.2021
Ngũ hổ năm anh tướng rất mầu, Đâu dè đến nỗi thất Kinh Châu. Thời Lưu chưa đạt hay sao đặng, Vận Hớn còn suy giỏi mặc dầu. Tiếc bấy công trình Gia Cát Lượng, Uổng thay mỏi mệt Hán Đình hầu. Nghĩ thương cái phận Lưu Huyền Đức, Nhiều nỗi Đàn Khê dễ sá
Thơ
•
27.11.2021
Hỡi ôi! Dấu hạc xa miền; Tiếng quyên não tức. Sách nói hoa phút bay thời nước cũng chảy, đổi dời theo phận, máy trời đất khéo xoay; Ai rằng cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, ngơ ngác nỗi mình, tình mẹ con vội đứt. Nhớ linh xưa: Trọn đạo tam tòng; Giữ
Thơ
•
27.11.2021
Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây Một giấc sa trường phận cũng may. Viên đạn nghịch thần treo trước mắt, Lưỡi gươm địch khái nắm trong tay. Đầu tang ba tháng trời riêng đội, Lòng giận nghìn thu đất nổi dày. Tiếc mới một sồng ra đặt trụm. Cài xên, con r
Thơ
•
27.11.2021
Làm thinh hổ đứng giữa hai ngôi, Nếm mật từ đây khó nỗi ngồi. Mũi giáo Thi Toàn đừng để sét, Lưỡi gươm Dự Nhượng phải toan giồi. Đánh Kim chi sá thằng Lưu Dự, Giúp Tống xin phò gã Nhạc Lôi. Vâng hộ nước Nam về một mối, Nghìn năm miễu tặng rạng công
Thơ
•
27.11.2021
Thương thay! Tạo vật khuấy người ta, Năm đổi làm Tây, chính lại tà. Trống nghĩa bảo an theo sấm rạp, Cờ thù công tử guộng mây qua. Én vào nhà khác toan nào kịp, Hươu thác tay ai vọi hỡi xa! Trong số nên hư từng trước mắt, Người ôi! trời vậy tính sa
Thơ
•
27.11.2021
Vì câu danh nghĩa phải đi ra, Day mũi thuyền nan dạ xót xa. Người dễ muốn chi nương đất khách, Trời đà khiến vậy mến vua ta. Một phương thà tránh đường gai gốc, Trăm tuổi cho tròn phận tóc dạ. Chén rượu ấm lòng xin cạn chén, Nhớ nhau ngày khác biết s
Thơ
•
27.11.2021
Dễ ai dằn thúc lối sau nầy, Trời bởi chưa cho vội đổi xây. Thà buổi trường sa da ngựa bọc, Khỏi nơi Đạo Chích tiếng muồng rầy. Lục lâm mấy chặng hoa sầu bạn, Thuỷ hử vì đâu nhạn rẽ bầy. Hay vậy cõi biên rong vó ký, Náu nương chờ vận có đâu vầy.
Thơ
•
27.11.2021
Quan Phan thác trọn chữ trung thần, Ôm tiếng như người cũng nghĩa dân. Làng đế đành theo ông hữu đạo, Cõi phàm hổ ngó lũ vô quân. Lòng son xin có hai vần tạc, Giồng Gạch thà không một tấm thân. Ai khiến cuộc hoà ra cuộc chiến, Người qua An Lái luống
Thơ
•
27.11.2021
Thương tình bào đệ, Gửi bức tâm thư. Nghe em lăm toan việc tóc tơ, Nên anh mới nhả lời vàng ngọc. Hễ làm người có học, Cho biết lễ trong nhà. Chẳng trau mình sao đặng chữ tề gia, Còn nhỏ tuổi gấp chi đàng cầu tự. Ví dù muốn nơi nào thiếp nữ, Thì hãy
Thơ
•
27.11.2021
Đã đành trôi nổi tấm thân bèo, Mình nghĩ lòng mình dám nói leo. Đánh xé sau khi cò mổ vọp, Sụt trồi đâu dám ốc mang rêu. Cửa rồng muôn dặm may còn nhóm, Bến Nghé năm canh quạ hãy kêu. Chén rược xóm riềng cho cũng uổng, No sau xin để mặt ăn heo.
Thơ
•
27.11.2021
Chiều chiều lại nhớ đến chiều chiều, Cám cảnh giang sơn biết bấy nhiêu! Dấu cũ gò bằng nền Hạ Vũ, Phép xưa khuôn trái luật Đường Nghiêu. Hứa Do ngơ mắt làm thằng mục, Sào Phủ nghiêng tai giả chú tiều. Thế vạy răn mình đừng có vạy, Cờ mao chống chỏi c
Thơ
•
27.11.2021
Tướng quân đâu hỡi có hay chăng? Sáu ải cơ đồ nửa đã ngăn. Cám nỗi kiến ong ra sức dẹp, Quản bao sâu mọt chịu lời nhăng. Đá kêu rêu mọc bia Dương Nghiệp, Cỏ úa hoa tàn mả Lý Lăng. Thôi vậy thì vậy thôi cũng vậy, Anh hùng đến thế dễ ai dằn.
Thơ
•
27.11.2021
Làm người trung nghĩa đáng bia son, Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng mòn. Cơm áo đền bồi ơn đất nước, Râu mày giữ vẹn phận tôi con. Tinh thần hai chữ phao sương tuyết, Khí phách nghìn thu rỡ núi non. Gẫm chuyện ngựa Hồ chim Việt cũ, Lòng đây tưởng đó m
Thơ
•
27.11.2021
Hoàng hoa mấy dặm điệp tin qua, Xin nhắn Vương Lăng bỏ chuyện nhà. Đầu đội trời Lưu thờ kẻ lớn, Hơn về đất Hạng thấy đàn bà. Thảo ngay khuyên chớ hai lòng trẻ, Còn mất màng chi một phận già. Ngựa trạm riêng đưa lời thiết gửi, Trong quân hùm hổ khó lâ
Thơ
•
27.11.2021
Ba Tri từ vắng tiếng hơi chàng, Gió thảm mưa sầu khá xiết than. Vường luống trông xuân hoa ủ dột, Ruộng riêng buồn chủ lúa khô khan. Bầy ma bất hạnh duồng làm nghiệt, Lũ chó vô cô cũng mắc nàn. Người ấy vì ai ra cớ ấy, Chạnh lòng trăm họ khóc quan Ph
Thơ
•
27.11.2021
Hỡi ơi! Giặc cỏ bò lan; Tướng quân mắc hại. Ngọn khói Tây bang đóng đó, cõi biên còn trống đánh sơn lâm; Bóng sao Võ Khúc về đâu, đêm thu vắng tiếng canh dinh trại. Nhớ tướng quân xưa: Gặp thuở bình cư; Làm người chí đại. Từ thuở ở hàng viên lữ, pháp
Thơ
•
27.11.2021
Tiếng đồn ngàn dặm ngựa Tiêu Sương, Lầm đứa gian mưu nghĩ khá thương. Giậm vó chẳng màng ăn cỏ Tống, Quày đầu lại hí nhớ tàu Lương. Chẳng cho chủ khác ngồi lưng cổ, Thà chịu vua ta nắm khớp cương. Ngựa nghĩa còn cưu nhà nước cũ, Làm người bao nỡ phụ
Thơ
•
27.11.2021
Hoá công máy móc ở đâu nà, Trăm thợ nhân gian nghẻ ngóc ra. Sáu tỉnh đua làm nghề khéo léo, Năm châu sắm đủ của xây xoa. Mẫu tuồng đơn kép theo hình thế, Mỗi việc lâu mau tại ý ta Máy tạo trong tay nào có vụng, Chi lăm lương đống nước cùng nhà.
Thơ
•
27.11.2021
Linh hồn nay đã tách theo thần, Sáu tỉnh còn roi dấu tướng quân. Mực sở lãnh binh lờ mắt giặc, Son bằng ứng nghĩa thắm lòng dân. Giúp đời dốc trọn ơn nam tử, Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần. Ốc ngỡ tướng tinh rày trổ mặt, Giúp xong nhà nước buổi g
Thơ
•
27.11.2021
Như còn chẳng gọi thế rằng cô, Cái chuyện hoa vi trước hoạ đồ. Sở hỡi trót ghi cừu họ Ngũ, Hán đâu khỏi trả hận thằng Nô. Vàng tơ sử Mã giồi đường sứ, Búa vớt kinh lân lấp dấu hồ. Ngày khác xa thư về một mối, Danh thơm ngươi tới cõi hoàng đô.
Thơ
•
27.11.2021
Đâu vầy sấm chớp nổ thình lình, Gió bặt thêm buồn mấy đạo binh. Ngựa trạm xăng văng miền bắc khuyết, Xe nhung ngơ ngẩn cõi Tây Ninh. Bài văn phá lỗ cờ chưa tế, Tấm bảng phong thần gió đã kinh. Trong cuộc còn nhiều tay tướng tá, Lời nguyền trung nghĩa
Thơ
•
27.11.2021
Tượng mảng: Lẽ trời sinh vật; Vật ấy nhiều loài. Lấy câu thuận tính làm lành; Thấy chữ nghịch thường mà ngán. Nhỏ là loài ong kiến, còn biết nghĩa quân thần; Lớn là loài hổ lang, cũng niệm tình phụ tử. Kìa như thước báo tai, cưu báo hỷ, đời cũng nhờ
Thơ
•
27.11.2021
Bâng khuâng ngày xế cả than trời, Ai đổ cho người gánh nạn đời. Nếm mật Cối Kê đâu chẳng giận, Cắp dùi Bác Lãng há rằng chơi. Một sòng cung kiếm rồi vay trả. Sáu ải tang thương mặt đổi dời. Thôi! mất cũng cam, còn cũng khổ, Nay Kim mai Tống thẹn làm
Thơ
•
27.11.2021
Hiểm nguy đâu núng chí anh hào, Phó hội mình đeo một lưỡi đao. Chén rượu vội vàng khi tiếp rước, Ngọn gươm thong thả lúc ra vào. Oai hùm gặp gió đưa hơi mạnh, Lũ chó rùng mình nép trí cao. Theo gót Kinh Châu nên nghiệp cả, Nghìn năm còn để tiếng vườ
Thơ
•
27.11.2021
Một câu thế lợi mở muôn nguồn, Giàu có đua nhau việc bán buôn. Các chợ sinh tài trăm họ nhóm, Chiếc thuyền trực hoá bốn phương luồn. Trái cân Yến tử không rơi dấu Cuốn sách Đào công chẳng hết tuồng. Chờ giá rủi may may gặp vận, Ra vào biết mấy của ng
Thơ
•
27.11.2021
Ai toan cho thấu máy trời sâu, Sự thế nghe thôi đá lắc đầu. Giặc cỏ om sòm mưa lại nhóm, Binh sương lác đác nắng liền thâu. Cờ lau đã xếp trên Giồng Cát, Trống sấm còn gầm dưới Cửa Khâu. Cảnh ấy những mơ người ấy lại, Hội nầy nào thấy tướng quân đâu?