Nắng hè

Thơ   •   Thứ tư, 10/11/2021, 16:34 PM

Cũng thì đất chở, cũng trời che, Nóng nảy làm chi bấy hỡi hè? Khắc khoải đã đau lòng cái quốc, Băn khoăn thêm tức ngực con ve. Người nằm trướng vóc, bồ hôi mướt, Kẻ hái rau tần, nước bọt se. Nào khúc Nam huân sao chửa gẩy ? Chẳng thương bồ liễu phậ

Nội dung bài thơ: Nắng hè

Cũng thì đất chở, cũng trời che,

Nóng nảy làm chi bấy hỡi hè?

Khắc khoải đã đau lòng cái quốc,

Băn khoăn thêm tức ngực con ve.

Người nằm trướng vóc, bồ hôi mướt,

Kẻ hái rau tần, nước bọt se.

Nào khúc Nam huân sao chửa gẩy ?

Chẳng thương bồ liễu phận le te.


Bài thơ Nắng hè của tác giả Nhà thơ Lê Thánh Tông - 黎聖宗, Lê Tư Thành, 黎思誠, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.

Nhà thơ Lê Thánh Tông - 黎聖宗, Lê Tư Thành, 黎思誠

Nghệ danh: Lê Thánh Tông

Tên thật: Lê Thánh Tông 黎聖宗, Lê Tư Thành, 黎思誠

Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Lê Thánh Tông - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác

icon Tác giả Lê Thánh Tông, Thơ Lê Thánh Tông, Tập thơ chữ Nôm

Tổng hợp

Cùng tập thơ: Thơ chữ Nôm

Núi Ngọc Nữ

Thơ   •   10.11.2021
Trấn nam minh nẻo thuở xưa, Xuân thu đã mấy, có chồng chưa ? Dồi thức bạc khi sương rụng, Thoảng mùi hoa thuở gió đưa, Gương mượn trăng soi, mầu lại tỏ, Tóc khoe mây vén, nhặt thì thưa. Dấu thiêng lượng rộng kiền khôn gộp, Ngọc đá bao nhiêu chứa chẳ

Hoạ vần bài Vịnh trăng (III)

Thơ   •   10.11.2021
Ở cao song cũng thấu nhân tình, Vì có làu làu tính sáng thanh. Soi khắp đầu giêng liền cuối chạp, Suốt từ một khắc nhẫn năm canh. Tàn vàng xô lại chồi mai bạc, Bóng ngọc cây vào khóm trúc xanh. Dám hỏi những gì trong cối thuốc, Liệu âu còn thiếu mặ

Cái diều giấy

Thơ   •   10.11.2021
Gió hiu hiu nhẹ cánh hồng, Nhang dọc dầu ta cao lướt không. Đỉnh núi phau phau mờ thức bạc, Giữa trời lồ lộ dãi vầng hồng. Chín lần lèo rủ, dầu thong thả, Bốn biển lòng vui phỉ ngóng trông. Có thuở liệng chơi ngoài lục hợp (?) Hư không, loà

Chức Nữ nhớ Ngưu Lang (I)

Thơ   •   10.11.2021
Một mình vò võ chốn Hà đông, Nhớ khách đầy vơi luống những trông... Gối ngọc giấc màng êm lưới đệm, Thoi vàng tay ngại mắc trên không. Đêm thanh lần tưởng hai phương nguyệt, Ngày vắng buồn xem một dải sông. Gẫm thấy một thu là một họp, Còn hơn kẻ chự

Lại vịnh cảnh mùa đông

Thơ   •   10.11.2021
Từ thuở Huyền minh chịu lệnh đông, Vù vù đòi chốn trận kim phong. Canh chầy ngọc lậu trong bằng tuyết, Đêm lọt lưu tô lạnh nữa đồng. Thượng uyển cúc tàn năm bảy lá, La Phù mai chiếng một hai bông. Bốn mùa mựa chửa lầu canh hết. Thang Vũ đều làm phả

Canh ba (I)

Thơ   •   10.11.2021
Đêm chia nửa, khéo hai là, Giữa giáp canh, ban trống ba. Đường quạnh phất phơ cây ngất gió, Trên không lác đác tuyết bay hoa. Bâng khuâng kẻ mệt hồn thần nữ, Phảng phất trời cao bóng tố nga (trăng). Nhớ chúa kìa ai nằm chẳng nhắp, Thâu đêm tr

Điếu trạng nguyên Nguyễn Trực

Thơ   •   10.11.2021
Đời dõi nho tông phát ấp bang, Trong đạo đức, có từ chương. Nối dòng thi lễ nhà truyền báu, Tranh giải khôi nguyên bảng chói vàng. Nam bắc hai triều danh dậy, Phong lưu một cửa họ sang. Từ đường ở đấy niềm tây lạnh, Dấu cũ càng thơm xạ có hương.

Chó đá (I)

Thơ   •   10.11.2021
Quyền trọng ơn trên trấn cõi ngoài, Cửa nghiêm chem chẻm một mình ngồi. Quản bao xương tuyết nào chi kể, Khéo giữ cao lương cũng chẳng nài. Mặc khách thị phi giương tráo mắt, Những lời trần tục biếng vào tai. Một lòng thờ chúa, nghìn cân nặng, Bền vữ

Tiên nữ tiễn Lưu Nguyễn (I)

Thơ   •   10.11.2021
Khách hỡi, chào ai kíp nỡ từ ? Xui người bát ngát phải nên đưa. Dùng dằng động ngọc vừa khi sớm, Dìu dặt làng hoa nhẫn khắc trưa. Đường khách dặm ngàn chàng hãy lại, Chăn loan nửa bức thiếp còn chờ. Non xanh nước biếc khi lành lạnh, Cũng chớ cho hay

Tiết trùng dương uống rượu cúc

Thơ   •   10.11.2021
Gặp tiết trùng dương rượu cúc vây, Bao nhiêu tri kỉ mấy hàng cây. Ngàn nhàn dầm chén hoa vàng luột, Thẻ diễn nghiêng hồ tiệc ngọc chầy. Kẻ hái giậu đông chân bén tuyết, Người lên lầu bắc mặt trông mây. Thù du cài tóc càng yêu nữa, Lọ hỏi tiên ông đế

Hoạ bài Tết Nguyên Đán

Thơ   •   10.11.2021
Âm dương hai khí mặc xoay vần, Nẻo quá thì đông, đến tiết xuân. Chân ngựa rong khi tuyết tĩnh, Hàng loan sắp thuở canh phân. Chín trùng chăm chắm ngôi hoàng cực, Năm phúc hây hây dưới thứ dân. Mây họp đền nam chầu chực sớm, Bên tai dường mảng tiếng

Canh hai (II)

Thơ   •   10.11.2021
Nước cạn đồng hồ canh chuyển hai, Đêm dài đằng đẵng tựa năm dài. Vang ngõ nọ chày cao thấp, Nhộn lầu kia địch bẻ bai. Trăng sáng ba ngàn thế giới, Gió đưa mấy xóm lâu đài. Sẩy nằm khi ấy còn mường tượng, Văng vẳng thiều quân tiếng ở tai.

Cung tần

Thơ   •   10.11.2021
Ơn trên thương đến phận xa xôi, Cửa ngọc thân nhàn trộm tới lui. Cỏ áy những nhờ hơi tuyết bén, Hang sâu mừng thấy bóng dương soi. Trộm nom trên có lòng hồ hải, Đành biết thân chăng nỗi vụng ngòi. Chỉ non Nam làm lễ tạ, Bõ lòng hoài viễn phận làm tô

Canh năm (II)

Thơ   •   10.11.2021
Đến năm canh ban trống năm. Buồng lan đèn hạnh đã lâm dâm. Mơ màng bóng nguyệt kề song xế, Thánh thót chày thu cách nước đâm. Người thức lầu hồng còn bịn rịn, Ngựa quen đường tía đã lăm chăm. Chín trùng khi ấy ban chầu đã, Vô sự dầu ta mặc sức nằm.

Chùa Pháp Vũ

Thơ   •   10.11.2021
Vô biên công đức dậy lừng danh, Phơi ngỏ hồ thiên cảnh tú thanh. Ngọc thỏ một vầng in địa trục, Bàn long đòi thế mở đồ tranh. Cầm thông gió quyến khi tuyên pháp, Hoa báu mưa rây thuở diễn kinh. Tiết gặp thăng bình nhân thưởng ngoạn, Tuệ quang thay, đ

Vịnh cảnh mùa hè (II)

Thơ   •   10.11.2021
Nghi ngút ngàn mây tán lửa che, Rùng người thay bấy, gọi là hè, Hồng bay lựu, màn vây liễu, Hương nức sen, bóng rợp hòe. Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc, Cành kia dắng dỏi gẩy cầm ve. Lầu cao gió mát, người vô sự, Khúc Nam huân văng vẳng nghe.

Người bù nhìn (II)

Thơ   •   10.11.2021
Quyền trọng ra uy trấn cõi bờ, Vốn lòng vì nước há vì dưa. Xét soi trước mặt đôi vừng ngọc, Vùng vẫy trên tay một lá cờ. Dẹp giống chim muông xa phải lánh, Dể quân cầy cuốc gọi không thưa. Mặc ai nhảy nhót đường danh lợi, Ơn nước đầm đìa hạt móc mưa.

Vịnh cảnh mùa đông (II)

Thơ   •   10.11.2021
Đòi phượng lạt sạt trận hàn phong, Da diết người thay bấy hỡi đông! Mốc rắc rêu tiền, xanh những tuyết, Cát pha màu bạc, giá đầy sông. Chuông vàng ngàn khói thông về hạc, Canh diễn lầu châu nước ngán rồng. Chớ chớ ngại rằng mai lạnh lẽo, Kìa kìa ma

Cây đánh đu

Thơ   •   10.11.2021
Bốn cột lang, nha cắm để chồng, Ả thì đánh cái, ả còn ngong. Tế hậu thổ, khom khom cật, Vái hoàng thiên, ngửa ngửa lòng. Tám bức quần hồng bay phới phới, Hai hàng chân ngọc đứng song song. Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy, Nhổ cột đem về để lỗ không.

Hoạ vần bài Vịnh trăng (IX)

Thơ   •   10.11.2021
Mây mây móc móc nhẫn vô tình, Vằng vặc trăng càng tiết sạch thanh. Lo thuở thủy triều dâng thảy thảy. Tỏ khi điêu đẩu đếm canh canh. Bạc in con ruộng manh tơi cũ, Vàng lọn ông câu lá non xanh, Dại dột việc gì say bắt bóng, Khá cười khá tiếc gã Canh

Cảnh buổi sáng ở Động Lâm

Thơ   •   10.11.2021
Trước đông tang tảng cảnh hầu ngày, Bến Động Lâm kia cũng gấm tày. Cửa có non xanh xem dễ thấy, Song nhiều mai bạc lựa sơ hay. Cá ăn mặt nước con vờn, nhảy, Chim bắn đầu non cái đỗ, bay. Khi ấy bút thần làm biếng chép, Giang sơn góp một nghiêng tay.

Gậy và nón

Thơ   •   10.11.2021
Vật tiện tuy chưa toại sở cầu, Khi dùng đến, mới biết rằng mầu. Tiết ngay, thờ chúa cơn nguy hiểm, Lượng rộng dung người thuở dãi dầu. Khỏe chống giang sơn no chốn chốn, Rợp che thế giới khắp đâu đâu. Ra trỏ, vẫy, xu cơ nhiệm, Quyền ở trong tay chức

Cái điếu

Thơ   •   10.11.2021
Đã nên danh giá nhất trên đời Kẻ kính người nưng khắp mọi nơi Đầu mũ lưng đai ngồi chểnh chện Lòng sông dạ bể xiết xa khơi Tiếng kêu réo sấm lừng vang đất Hơi thở tuôn mây rẽ ngất trời Một trận ra uy trong nước lộn Ải nam khói tạt bắc chìm hơ

Tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn

Thơ   •   10.11.2021
Chẳng còn nhớ đến khúc Nghê thường, Một phút chiêm bao một phút thương. Thuở động ngày chầy xuân vắng vẻ. khi người đường cách nguyệt mơ màng, Đất nhiều cỏ ngọc ngàn xanh biếc, Nước có hoa đào sóng ngát hương. Gió thổi đèn tàn thêm lạnh lẽo, Thân này

Vịnh con cóc

Thơ   •   10.11.2021
Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi, Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi. Chép miệng nuốt ba con kiến gió, Nghiến răng chuyển động bốn phương trời.

Tiếng chuông chiều trong chùa đầy mây khói

Thơ   •   10.11.2021
Khói lục vây thành, thế giới tiên, Chuông đâu ban tối tỏ cơ thiền. Pha sương một tiếng người cài cửa, Nện nguyệt ba canh khách nổi thuyền, Ngước mặt xem, ngờ những nước, Cong tai mảng, mới hay chiền. Ít nhiều nhân ngã chưng khi ấy, Giũ lâng lâng hế

Cây quế trong trăng

Thơ   •   10.11.2021
Ấy chẳng thiềm cung đan quế vay? Thế gian ít kẻ biết mùi cay. Thu thanh bóng tỏ mười phần sáng, Hồ sạch hương đong mấy hộc đầy. Củi hát tư mùa Ngô dõi búa, Thuốc đâm một chén thỏ vung chày. Từ khi mình nhẹ nên bay cánh, Chiếm được ngôi cao bốn bể hay

Vịnh cảnh mùa xuân (II)

Thơ   •   10.11.2021
Lật lật bình phong mở mấy lần, Khắp hòa chốn chốn một trời xuân! Hiu hiu gió thổi, hương lồng áo, Phơi phới mưa sa, ngọc đượm chân. Liễu vẽ mày xanh oanh chấp chới, Mai tô má phấn bướm xun xoăn. Đường chen xe ngựa tai vang nhạc, Nào chốn nào là chẳng

Lại vịnh cây cau

Thơ   •   10.11.2021
Được chốn đi về tốt lạ lùng, Vì người dễ khiến thức khoe hồng. Mình cài xiêm lục phe đuôi phượng, Bóng tiểu trì thanh uốn khúc rồng. Tiết cứng khá phen quân tử trúc, Thói cao chẳng nhượng đại phu tùng. Trời sinh có ý dù nên nữa, Tàn rợp đời đời cửa

Lại vịnh Hàn Tín

Thơ   •   10.11.2021
Thấy rồng năm thức nặng mình phù, Nanh vuốt ra tài, mấy trượng phu ? Mũi bác chọc đông, Tề lạnh khói, Ngọn cờ trỏ bắc, Triệu bay lò. Nghìn vàng tấc tấc đền ơn mụ, Một gánh quằn quằn trả nợ vua. Hơn nữa, Ngũ Hồ có ai cấm ? "Cung tàng" lẩn th

Cây mai già

Thơ   •   10.11.2021
Dòng dõi Giang Lăng tiếng đã đồn, Già còn hơn nữa thuở còn non. Xuân thêm cốt cách, hương càng bội, Tuyết giúp tinh thần ngọc hãy còn... Kể mặt, hay thông đều bạn tác, Theo chân chiếm bảng, những em con. Tiết là đá sắt thêm khoe muộn, Sực nức danh th

Bơi thuyền ở Trà Thượng

Thơ   •   10.11.2021
Nhè nhẹ thuyền ai bến liễu dời, Lam am nghìn dặm nhuộm da trời. Toán ngày con nước, chèo lan gác, Đối bữa cơm chay, chén cúc phơi. Khói tĩnh đan hà màu tía rạng, Mây lồng bích thụ thức xanh hơi. Giang san nơi chốn, chơi đòi chốn, Sập cửa mui nằm má

Hoạ bài Người hái củi

Thơ   •   10.11.2021
Đầu non đã tạnh khói còn om, Mấy gã tiều phu đã sớm nom. Nửa bó yên hà mang đủng đỉnh, Đôi bên phong nguyệt quảy lom khom. Trời Nghiêu, ngày Thuấn mình ăn ở, Đỉnh Thạch non Thai mặt ngước nhòm. Ước thấy Mãi Thần mà thử hỏi: "Rằng xưa gặp chúa mé

Tục thôn tiến trung

Thơ   •   10.11.2021
Cửa che lều, khói nắng mưa, Tục hây hấy, lễ đón đưa. Cày thuở ruộng thu, êm cỏ lục, Ca khi bóng nguyệt quyến mai thưa. Người còn thói hậu, đời còn hậu, Nhà có kho thừa, thóc có thừa. Phủ trị biết chi là sở trọng ? Bảo rằng: "Nhân nghĩa lấy làm s

Tết Nguyên Đán

Thơ   •   10.11.2021
Cơ mầu thợ hoá bốn mùa vần, Đông cuối, ba mươi, mồng một xuân. Rờ rỡ cửa vàng, ngày Thuấn rạng, Làu làu phiến ngọc, lịch Nghiêu phân. Cao vòi vọi ngôi hoàng cực, Khắp lâng lâng phúc thứ dân. Tôi mọn dự đòi hàng ngọc duẩn, Non cao, kính chúc tuổi minh

Động Bạch Nha

Thơ   •   10.11.2021
Một chốn kiền khôn một chốn xuân, Đã dành phong cảnh thú thanh tân. Quanh co nước biếc doành muôn khảm, Chồng chập non xanh đá mấy lần. Quét bụi trần không một sở, Xui lòng khách hứng mười phân. Nhàn nào đấng thánh xem ngày trước, Biết được hư không

Thành cổ

Thơ   •   10.11.2021
Hoa cỏ đành xưa, gốc gốc già, Biết bao thu trải mấy hè qua, Cáo kêu eo éo ban trời tối, Quỉ khóc đìu hiu trận nguyệt tà, Công nghiệp ngày xưa hòn đá dựng, Bá vương nền cũ hạt mưa sa. Khen ai gây đặng thành đô ấy, Ấy của tiên vương, của quốc gia.

Hoa mai đầu mùa

Thơ   •   10.11.2021
Vườn xuân dòm dỏ đã chầy ngày, Dễ có Lâm Bô biết được hay. Hoa bạc phau phau xâm khí tuyết, Chồi xanh êu ếu lạt hơi may, Tỏ tường phòng khách khi đầm ấm. Lau chuốt lòng xuân đoạn đắng cay. Kham hạ điều canh còn để đợi, Kẻo còn đào mận những thay lay.

Khoai

Thơ   •   10.11.2021
Nảy nảy khoai, chỉn giống lành, Vun trồng đã cậy có xanh xanh. Cha con đã chông đoàn dù tán, Cháu chắt càng nhiều nhựa vuốt nanh. Khảm kể ruộng nương, danh trửng giả, Bữa ăn chuông vạc lộc công khanh. Nẻo ra thì phá lấy ngôi trước, Một đám nhà ta a

Người ăn mày

Thơ   •   10.11.2021
Chẳng phải ăn đong, chẳng phải vay, Khắp hoà thiên hạ đến ăn mày. Hạt châu, chúa cất trao ngang mặt, Bệ ngọc, tôi từng đứng lượm tay. Nam bắc đông tây đều tới cửa, Trẻ già lớn bé cũng xưng thầy. Đến đâu dẹp hết loài muông cẩu, Thu cả kiền khôn một tú

Tượng bà Banh

Thơ   •   10.11.2021
Chốn long cung cảnh giới này, Uẩy, ai đứng đấy lõa lồ thay! Miệng cười hơn hớn hoa in nhuỵ. Má đỏ hồng hồng tóc vén mây. Ây rắp phất cờ trêu ghẹo tiểu, Hay toan bốc gạo thử thung thầy. Chẳng lên bảo điện ngồi thong thả, Khéo đứng ru mà đứng mãi đây ?

Hoạ vần bài Vịnh trăng (VII)

Thơ   •   10.11.2021
Gió gió mưa mưa nhẫn bạc tình, Vui trăng luyện một tiết trăng thanh. Soi trên dưới muôn muôn chốn, Suốt xưa nay mấy mấy canh. Người nhớ vua, nhìn sa đũa ngọc, Kẻ trông chồng, ngẫm ruổi mây xanh. Muôn thu ngàn kiếp lồng đến ấy, Tả hữu cho nhiều phụ bậ

Lại vịnh cảnh mùa xuân

Thơ   •   10.11.2021
Từ thuở Đông hoàng chịu lấy quyền, Thiều quang làm cảnh rạng xuân thiên. Đường hoa chấp chới tin ong dạo, Dặm liễu thung thăng sứ điệp truyền. Ả Nguỵ, nàng Diêu khoe đẹp đẽ, Người thơ, khách rượu rộn mời khuyên. Nam nhi kịp thuở trong khi ấy, Diễu ng

Lưu Nguyễn nhớ tiên nữ (II)

Thơ   •   10.11.2021
Khách ở Thiên Thai cách mấy trùng, Ngày ngày hằng nhớ một niềm mong. Tưởng người ngọc nữ, thêm ngừng mặt, Nhớ nỗi Vu Sơn dễ chạnh lòng. Giục khách mưa sầu khoan lại nhặt, Trêu ai mây thảm lạt thì nồng. Nôn nao xuân lại bằng nguyền cũ, Ngỏ nỗi đôi phư

Núi Thần Phù

Thơ   •   10.11.2021
Phân cõi Nam Châu đất Ái Châu, Bút Vương khôn mạc cảnh Thần Phù. Muối pha bãi bạc sông sâu hoáy, Chàm nhuộm cây xanh núi tuyệt mù. Khói quán, mây ngàn tuôn ngùn ngụt, Chợ quê, sóng bể dức ù ù. Kìa ai rửa sạch trong niềm tục: Một chiếc thuyền câu chở

Lưu Nguyễn trở lại không gặp tiên nữ

Thơ   •   10.11.2021
Ngọc Chân lại đến hỏi chưng đây, Rầy đã rêu rêu bụi bụi đầy. Ca khúc rền rền cách núi, Lành doành văng vẳng khoá mây. Thức cây chẳng phải xanh phen nọ, Điểm khói nào còn biếc bấy chầy. Mặt nước hoa trôi lành lạnh đấy, Người tiên mời rượu ở đâu rầy?

Vịnh Tiêu Hà

Thơ   •   10.11.2021
Vả đao bút lại bấy nhiêu lâu, Xảy gặp cao hoàng, phúc bởi đâu? Mình cuốn đồ thư, hình thế biết, Tay cầm mực thước, trí mưu sâu. Vận lương trấn ải, no quân Hán, Phân đất phong hầu, đội tước châu. Chư tướng, nhường cho công đệ nhất, Tót danh tam kiệt,

Nắng mùa hè

Thơ   •   10.11.2021
Buồn nghe dặng tiếng, tiếng cầm ve, Gióng khách chào ai bấy, hỡi hè ? Bẻo lẻo đầu ghềnh con bố cốc, Lênh đênh mặt nước cái đè he, Ngày chầy phảng phất hồn hồ điệp, Đêm nhắp mơ màng tiếng tử qui, Nóng nảy làm chi cờ dạo cuộc, Nam huân sao chửa lọt s

Hoa sen

Thơ   •   10.11.2021
Chẳng bợn tri trần mảy mảy hơi, Luận bề thanh quý tót xa vời. Nõn nà sắc nước nhờ duyên nước, Ngào ngạt duyên trời nức dặm trời. Gấm Chức dong tơ, khuây cửi mắc, Gương Hằng ngắm bóng, ngại trâm cài. Dao Trì lần thấy triều đi rước, Hớn hở Thai minh vậ

Núi Song Ngư

Thơ   •   10.11.2021
Sơn thủy so xem chốn hữu tình, Chưng đây mừng thấy lạ hòa thanh. Dăng ngang biển, chờn vờn lớn, Cao chọc trời, ngần ngật xanh. Muôn kiếp chầu về đền Bắc cực, Ngàn thu chống khỏe cõi Nam minh. Đời đời trụ thạch quyền trong nước, Thiên hạ nào ai chẳng

Cây chuối

Thơ   •   10.11.2021
Thú nửa lâm tuyền, nửa thị thành, Vun trồng, toàn đội đức cao xanh. Dọc giơ gươm đẩu kinh cuồng khấu, Lá cuốn cờ xuân tượng thái bình. Trong sạch xưa sau ấy tiết, Móc mưa nhuần gội trong mình. Đành hay giống cố phù nước, Con cháu đời đời dõi đĩnh s

Núi Nam Công

Thơ   •   10.11.2021
Đá ấy xương, cỏ ấy lông, Trời Nam đứng giữa, gọi Nam công. Múa vai bóng rợp dân muôn họ, Giương cánh nâng phò nước chín trùng. Lóng lánh kiền khôn thế giới, Xênh xang xuân hạ thu đông. Đành hay là giống trời sinh có, Ngỏng cổ chầu về đất tổ long.

Tiên nữ tiễn Lưu Nguyễn (IV)

Thơ   •   10.11.2021
Trách thay tạo hóa phụ duyên ưa, Nỡ khiến chàng về thiếp phải đưa. Lòng nọ hãy còn sầu hãy giục, Chân kia càng nhẹ bước càng thưa. Nước non thiếp chẳng quên niềm cũ, Ân ái chàng tua nhớ nghĩa xưa. Một khúc Ly tao buồn biếng đọc, Đôi hàng giọt ngọc đư

Vịnh người chăn trâu (II)

Thơ   •   10.11.2021
Nẻo ra thì có phu đồng bộc, Song viết ai bằng song viết mục ? Nhật nguyệt đôi vầng tấm nón nan, Giang san ngàn dặm một rò trúc, Sách xưa Hề, Thích thấy còn truyền, Đời thịnh Thuấn, Nghiêu mừng ấy phúc, Lục lõi tự nhiên sinh sản nhiều, Thái bình tay v

Canh năm (I)

Thơ   •   10.11.2021
Canh chầy đèn hạnh lâm dâm, Xao xác lậu canh trống điểm năm. Nguyệt đầu non treo chếch chếch, Sương mặt đất ướt đầm đầm. Rừng khuya bố cốc còn khua gióng, Làng nọ nông phu đã thức nằm. Bóng ác rạng đông, trời đã sáng, Tiếng gà sôi nổi, tiếng hàn châm

Vịnh Trương Lương

Thơ   •   10.11.2021
Phò Hán công nên, liền liện ngơi, Xích Tùng tiên tử, náu tìm chơi. Đền phong khúm núm còn từ bệ, Thành Cốc mơ màng đã tới nơi. Thuyền tếch Ngũ Hồ đênh một lá, Công hơn tam kiệt nhẫn đôi người. Thế gian đâu có thần tiên nhỉ ? Ơ hơ! Ông này sa chước ng

Hoa biết nói

Thơ   •   10.11.2021
Quốc sắc xem bằng ngọc mới đông, Hay cười hay thốt khá dường bông. Nhiều phen hỏi nguyệt đeo hơi quế, Mấy phút chào xuân kém nhụy hồng, Một thức thơm tho lầu gác phượng, Mười phần tươi tốt mặt tai rồng. Bên thành cách ngỡ lòng chưa phỉ, Bao mượn Huyề

Sông Bạch Đằng

Thơ   •   10.11.2021
Lẻo lẻo doành xanh nước tựa dầu, Trăm ngòi, ngàn lạch chảy về chầu. Rửa không thay thảy thằng Ngô dại, Dịu một lâng lâng khách Việt hầu. Nọ đỉnh Thái Sơn rành rạnh đó, Nào hôn Ô Mã lạc loài đâu ? Bốn phương phẳng lặng kình bằng thóc. Thong thả dầu ta

Lại vịnh Tô Vũ

Thơ   •   10.11.2021
Cờ sứ bền cầm một cán không, Mười năm chẳng trễ tiết cô trung. Đất Hồ sương tuyết gầy mình hạc, Đền Hán ngày đêm nhớ mặt rồng. Biển bắc xuân chầy, dê chẳng nghén, Trời nam thu thẳm, nhạn khôn thông. Kì lân tượng vẽ còn rành rạnh Tôi Hán nào ai dám ví

Trăng thu dọi cây sân

Thơ   •   10.11.2021
Thu nguyệt kề sân thuở tạnh mưa, Ngàn cây hây hẩy gió thanh đưa, Vàng rây mấy khóm chồi cao thấp, Bạc điểm đòi chùm bóng nhặt thưa. Vẫy bút thơ tiên ngâm chẳng xiết, Đầy bầu rượu thánh hứng thêm thừa. Này này phong cảnh hòa tri kỉ, Lọ thốt Lan Đình l

Cây thông

Thơ   •   10.11.2021
Tán xanh ngột ngột rợp hư không, Qua mấy trăm thu thuở bão bùng. Tiết cứng chẳng kinh sương tuyết bén, Tài cao dưỡng để miếu đường dùng. Kì Viên giống lạ nào so kịp ? Dữ Lĩnh danh thơm dễ sánh cùng ? Ngượng thấy tam công đeo chức trọng. "Đại ph

Vịnh Hàn Tín

Thơ   •   10.11.2021
Đông chinh nguyên soái nảy quyền sang, Minh phủ nhiều công ai dám đang ? Áo Hán vương, bình sáu nước, Cơm Phiếu mẫu, trả nghìn vàng. Cổ kì oai ấy còn rành rạnh, Cung điểu ca đâu khéo tỏ tường! Chưng thuở công danh, huy xử được, Kiệt khen "tam k

Cái xe điếu

Thơ   •   10.11.2021
Vốn ở lâu đài đã bấy nay, Khi lên dễ khiến thế gian say. Lưng in chính trực mười phân thẳng, Dạ vẫn hư linh một tiết ngay. Động sóng, tuôn mây khi chán miệng, Nghiêng trời, lệch đất thuở buông tay. Dưới từ nội lục trên đền đỏ, Ai chẳng quen hơi mến đ

Canh ba (II)

Thơ   •   10.11.2021
Đến ba canh ban trống ba, Trên không lác đác tuyết bay hoa. Cửa doanh liễu kín khăng khăng đóng, Thuyền bãi lau kề dặng dặng ca. Thiết thạch lòng bền chăng nỡ trễ, Quan san đường viễn ngại chi qua. Chín trùng nằm miễn yên giấc, Nước đã yên, lọ hỏi nh

Vịnh cảnh mùa hè (I)

Thơ   •   10.11.2021
Thức xuân một khí hãy còn khoe, Phút đã nam ngoa đến tiết hè. Đằng đẵng ngày chầy giương tán nắng, Đùn đùn bóng rợp phủ màn hòe. Khúc hòa Ngu Thuấn đàn cầm ngọc, Chức thẳng Hi Hòa cửa sổ the. Trong ấy vây nên cờ một cuộc, Khéo đâu vang tiếng cái ve v

Ngưu Lang từ biệt Chức Nữ

Thơ   •   10.11.2021
Giã người cho khách lại Hà tây, Khôn xiết nguồn cơn nỗi đấy đây. Bát ngát mặt ngừng chan giọt ngọc, Dùng dằng chân ngại bước đường mây. Băng trông cầu Thước sầu thêm chất, Đoái thấy doành Ngân thảm dễ xây. Chầy kíp hẹn lành tin lại hợp, Thu sau càng

Con gà

Thơ   •   10.11.2021
Họ Chu từ thuở dưỡng nên thân, Năm đức gồm no: trí, dũng, nhân. Đầu đội văn quan cao mấy tấc, Chân giương vũ cựa nhọn mười phân. Nhiều phen làm bạn trong song Tống, Mấy phút đưa người khỏi đỗi Tần. Dầu nhẫn hôm nào phong vũ, Ắt chăng chẳng phụ chức

Lại vịnh trăng non

Thơ   •   10.11.2021
Ngọc đúc mười phân vuỗn chửa đầy, Nửa vầng rầng rậng mé phương tây. Bên loan Chức Nữ cài vòng lược, Dấu cũ Khai nguyên bấm móng tay. Cá ngỡ câu chìm xui bạn lánh, Chim ngờ cung bắn bảo nhau bay. Khi này tuy hãy còn rằng bé, Có thuở vầng ra thiên hạ h

Hoạ bài Người kiếm cá

Thơ   •   10.11.2021
Thuyền ai chiếc bé tiếng đà om, Thấy lũ thằng chài đứng vịnh nom. Nửa tấm áo tơi che lủn củn. Một cần câu trúc uốn khom khom. Ngư hà song viết ngày hằng đủ, Bạng duật đôi co thế ngại nhòm. Chờ thuở nguồn Đào tiên lại gặp, Cùng nhau cặn kẽ thuở đầu m

Hằng Nga nguyệt

Thơ   •   10.11.2021
Từ ngày gặp được thuốc đan sa, Chiếm Quảng Hàn cung làm cửa nhà. Lầu ngọc cao hòa thế giới, Mày ngài rạng khắp sơn hà. Năm hồ những lấy làm song viết, Bốn bể đều thìn thấy nết na. Thượng đế tuy hay nghiêm cấm đoán, Có đêm lởm thởm đến phòng ta.

Hoạ vần bài Vịnh trăng (I)

Thơ   •   10.11.2021
Ló lên liền thấy khác thường tình, Có vẻ cao hòa có vẻ thanh. Lầu ngọc gương giơ soi mọi nước, Tán vàng xe gác ruổi năm canh. Thước kinh thuở dãi, dời cành lục, Kình sợ khi xuyên, chúi mặt xanh. Cung ấy khom khom nên cách ấy, Đành hay giúp sáng có th

Cái chổi

Thơ   •   10.11.2021
Lời chúa vâng truyền xuống ngọc giai, Cho làm lệnh tướng quét trần ai. Một phen vùng vẫy, trời tung gió, Bốn cõi tung hoành, đất sạch gai. Ngày vắng dủ mây cung Bắc Hán, Ðêm thanh tựa nguyệt chốn lâu đài. Ôm lòng gốc rễ, lâu càng dãi, Mòn mỏi lưng cò

Lại vịnh cảnh mùa thu

Thơ   •   10.11.2021
Lác đác ngô đồng mấy lá bay, Tin thu hiu hắt lọt hơi may. Ngàn kia cách nước xo le địch, Mái nọ bên tường đủng đỉnh chày. Lau chổng bãi nam ngàn dặm rợp, Nhạn về, ải bắc mấy hàng bày. Quí Ưng, Tống Ngọc dường bao nữa, Khi ấy nhiều người cám cảnh thay

Trăng thu trên hồ Động Đình

Thơ   •   10.11.2021
Thu cao, hồ sạch, nguyệt bằng ngày, Đáy nước trên không một dạng tày. Cây dựng non Yên xanh dễ thấy, Cát in bãi Sở bạc khôn thay. Dòng lam nghìn dặm quyến phẳng, Hương quế ba canh gió bay. Có khách hứng dòng tìm Phạm Lãi, Vốc chơi, mừng thấy nguyệt b

Đại hạn gặp mưa

Thơ   •   10.11.2021
Đã dư mấy tháng ngày khô khao, Mừng thấy trời cho một trận rào. Hoa đượm màu tươi cười hớn hở, Cá mừng nước ngọt nhảy lao xao. Trong triều mọi sĩ đều ca vịnh, Ngoài nội tam nông kẻo ước ao, Nhuần khắp bốn phương tạo hóa, Mây tuôn năm thức chín trùng

Cái nón

Thơ   •   10.11.2021
Mưa nào lệ, nắng nào âu ? Các cứ làm nên nón đội đầu. Vành vạnh dường bằng vầng nhật nguyệt, Vần vần mấy tựa tán công hầu. Trùm mặt ngọc, mùi hương đượm, Dạo đường hoa, bóng ác thâu. Cả mọn thế gian nhờ phủ rợp, Nào ai là chẳng đội lên đầu ?

Trăng thu dãi doanh liễu

Thơ   •   10.11.2021
Tám cõi trời thanh sạch khói mù, Liễu doanh chưng thuở dãi trăng thu. Kim phong hây hẩy xuyên mành trúc, Ngọc thỏ làu làu ánh ải du. Tiệc rượu nhắp sôi lầu tướng súy, Lòng quê thêm tỏ mặt chinh phu. Nôn nao lại thấy phòng thu vắng, Cùng đượm xuân ph

Miếu vợ chàng Trương

Thơ   •   10.11.2021
Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương, Miếu ai như miếu vợ chàng Trương. Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ, Cung nước chi cho luỵ đến nàng. Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt, Giải oan chi lọ mấy đàn tràng? Qua đây mới biết nguồn cơn ấy, Khá trách chàng Tr

Người bù nhìn (I)

Thơ   •   10.11.2021
Thắt lưng, đội nón, thuở qua ưa, Nhà chúa truyền cho giữ ruộng dưa. Tay áo phất phơ thuở gió, Mồ hôi lã chã khi mưa. Khua loài điểu thử đi cho quạnh, Dễ đứa điền phu làm biếng thưa. Chực hăm hăm bờ ruộng ấy, Bấy lâu đã được trái nào chưa ?

Lại vịnh nắng mùa hè

Thơ   •   10.11.2021
Mai gầy liễu guộc, cỏ le te, Biết chạy làm sao khỏi nắng hè ? Đậu lá, võ vàng con bươm bướm, Ấp cây, gầy guộc cái ve ve. Thốt chi kẻ đã nằm trên gác, Thương một người còn lội dưới khe. Càng điểm mây mưa càng lõi lục, Hay làm cho bõ khách màn the.

Trúc quân tử

Thơ   •   10.11.2021
Giống lạ Giang Lăng đã được dành. Một mai năng chiếm được cao danh. Lòng không, chẳng vả phô niềm tục, Khí cứng hằng thìn một tiết thanh. Sớm còn đeo chim phượng đỏ, Khuya chờ mọc cháu rồng xanh. Kham chi thế gọi là quân tử. Sương tuyết nào hề bén mì

Vịnh người hái củi (II)

Thơ   •   10.11.2021
Một rìu, một búa của hôm chiều, Song viết ai bằng song viết tiều ? Lần nguyệt pha sương, ngày tháng Thuấn, Tìm thông, hỏi quế, nước non Nghiêu. Mây che đầu, ngàn tầng tán, Suối vang tai, chín chặp thiều. Khủng khỉnh ăn nằm đời thánh chúa, Làm chi lầ

Vịnh bài Hòn đá tảng giặt vải mùa rét

Thơ   •   10.11.2021
Đằng đẵng canh chày tuyết nhiễm xâm, Đỉnh đang đâu dội, tiếng hàn châm ? Chày kình vưỡn ngỡ thằng đồng nện, Cối thỏ dường đà ả quế đâm. Thục nữ tơi bời vui cửi dệt, Tao nhân ánh ỏi hứng thơ ngâm. Vẳng nghe sẽ chạnh niềm ưu ái, Màng tượng dường bằng p

Dệt cửi

Thơ   •   10.11.2021
Thấy dân rét mướt, nghĩ mà thương, Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường. Tay ngọc lần đưa thoi nhật nguyệt, Gót vàng dận dạn máy âm dương.

Mưa đêm ở Tiêu Tương

Thơ   •   10.11.2021
Nhàn Tương thuở rụng hạt mưa, Lã chã thâu đêm gió đưa... Trút tiếng vàng, cao lại thấp, Rung cành ngọc, nhặt thì thưa. Đành hanh tai khách nằm chăng nhắp, Lai láng lòng thơ hứng có thừa. Sớm dậy xem rồng mọc cháu, Nghìn hàng chổng, lạ hơn xưa!

Vịnh người đi cày (II)

Thơ   •   10.11.2021
Một cày, một cuốc, phận đà đành, Song viết ai bằng song viết canh ? Diệt, vắt, tay cầm quyền tướng súy, Thừa lưa thóc chứa lộc công khanh. Công A hành đến trời biếc. Tiết Tử Lăng còn núi xanh. Ngoài ấy có nơi hơn thú nữa, Ruộng lành dõi được giống nh

Vịnh người ăn mày

Thơ   •   10.11.2021
Góp giang sơn xách một quai, Lượng bằng sông biển chẳng từ ai! Vườn đào ngõ mận từng len lỏi, Gác tía lầu son mặc nghỉ ngơi. No biết thế tình mùi mặn nhạt, Quản bao nhật nguyệt (ngày tháng) bữa đầy vơi! Vương tôn thuở trước làm sao tá ? Bá

Canh bốn

Thơ   •   10.11.2021
Kế lậu canh mấy khắc dư, Đêm dài đằng đẵng mới sang tư. Gió lay chồi ải khua chim thức, Nước chảy trăng tà giục sóng đưa. Vạc thẩn thơ tìm nội quạnh, Trời lác đác vẻ sao thưa. Một bầu thế giới hây hây lạ, Mấy kẻ chung tình đã thức chưa?

Hoạ bài Mấy mầm liễu đỏ một thuyền chài

Thơ   •   10.11.2021
Giang thiên phẳng lặng tạnh mưa, Bãi, một thuyền ai giục sóng đưa... Hoa bén mùi thơm khi cá hớp, Cụm êm bóng thỏ thuở song thưa. Khê sơn cảnh lạ nào đâu thiếu ? Phong nguyệt kho đầy của ấy thừa. Dẽ có nơi khôn mạc được: Ái ưu khăn khắn một lòng sơ.

Canh một (II)

Thơ   •   10.11.2021
Xao xác ban vừa một khởi canh, Giốc ai thánh thót thuở giang thành. Chồi hoa điểm tuyết hoa tương bạc, Đèn hạnh ngấn cù bóng loáng xanh. Hàn tự chuông kia thôi mới đấy, Tiều lâu người nọ ngủ sao đành ? Ít nhiều tâm sự trong khi ấy, Nhỡ lắm thay càng.

Núi goá

Thơ   •   10.11.2021
Hòn đá ai đem đặt giữa đồng, Mĩ miều thiếu nữ lựa người trông. Da dồi phấn tuyết nhuần nhan sắc, Đầu gội mưa xuân sạch bụi hồng. Ngày ngắm gương ô đáy nước, Đêm cài lược thỏ trên không. Tới nay tuổi đã bao nhiêu tá ? Chành chạnh bền gan chửa lấy chồ

Đêm đông dậy sớm

Thơ   •   10.11.2021
Ví canh thì cũng chửa nên tan, Sẽ thức, vì chưng xống áo đan. Góc giậu buồn nghe lau, Bên tường ngại mảng dế ca đàn. Cớ chi Cô Dịch khuya lay cửa ? Mà giục Huyền Minh sớm gác yên. Quân tử dằn lòng ngơi chút nữa, Một mai có kẻ ruớc xuân sang.

Thánh Gióng

Thơ   •   10.11.2021
Tinh anh dấu được khí kiền khôn, Thiên tướng vang lừng tám cõi đồn. nghe tiếng Hùng vương bẻn nảy việc, Mảng danh, nghịch tặc đã kinh hồn. Vợt vàng ngựa sắt hằng di để, Làng Gióng non Trâu miếu hãy còn. Tự điển trời nam ngôi đệ nhất, Âm phò quốc thế

Vịnh cảnh mùa đông (I)

Thơ   •   10.11.2021
Vận bốn mùa này đã có công, Đêm dài bởi một thuở ba đông. Song mai nguyệt tỏ thanh bằng nước, Cửa trúc sương xâm lạnh nữa đồng. Điểm tuyết nào non đầu chẳng bạc ? Hóng lò, có khách mặt thêm hồng. Một mai sang đến xuân đầm ấm, Đường tía xem hoa diễ

Vịnh người đánh cá (II)

Thơ   •   10.11.2021
Nẻo đầu kể bốn thú nhàn cư, Song viết ai bằng song viết ngư ? Tám bức giang sơn thu vẹn tám, Tư mùa phong cảnh đủ hòa tư. Dong thuyền đợi tiên Tô tử, Nêm chèo ca khúc Sở từ. Nọ nọ Bàn Khê công nghiệp cả. Xuân thu lần kể tám mươi dư.

Cái quạt

Thơ   •   10.11.2021
Thác ở trong tay tạo hoá quyền, Một mình thờ chúa thuở hè thiên. Lưng mềm yểu điệu mười lăm tuổi, Má điểm yên chi bảy tám khuyên. Dặm liễu đã từng che mặt ngọc, Đường hoa có thuở vẫy người tiên. Tới thu lại thấy yêu đương nữa, Mựa chớ đàn chi thiếp b

Ở bãi cát Trà Thượng

Thơ   •   10.11.2021
Lẻ thẻ năm ba nhà khắp đồi, Cuốc cày sá tiếc trận rào thôi, Bủa chài cuối bãi thuyền đôi chiếc, Hái củi đầu non búa kể đôi. Cá được cất tươi giương thế hứng, Thơ ngâm đòi trận thỏa khi rồi. Ê a khách đến, trà ba chén, Cam quít đầy vườn ấy những tôi.

Vịnh thuyền người đánh cá

Thơ   •   10.11.2021
Năm hồ chiếm được chốn câu chài, Biếng thốt Cô Tô cũ có đài. Mui rách dập dềnh năm bảy chiếc, Chèo cùn nối nắm một đôi đai. Tiệc vậy tứ hữu từng quen bén, Cần đổi tam công tiếc chẳng hoài. Phong nguyệt ít nhiều song viết đủ, Khứng đâu vơ bậy, khứng c

Lại vịnh cảnh mùa hè

Thơ   •   10.11.2021
Từ thuở Chu minh chịu lệnh hè, Thừa lương đình viếng sáng bằng the. Ngày chầy, đêm kíp sầu hồn bướm, Lá rụng, hoa tàn động xác ve. Ngoài cửa đùn đùn tan bóng trúc. Công đường thay thảy phủ màn hòe. Thi nhân khi ấy chi làm bạn ? Một triện trầm hương m

Vương Tường tự than thân

Thơ   •   10.11.2021
Liễu mềm khôn cưỡng trận đông phong, Than thở nào ai kẻ thấu cùng ? Ngậm giận lòng lang cưu thói dữ, Lại thương phận bạc lụy quần hồng. Sầu xuân chẳng quản hoa gầy guộc, Đeo tuyết cho nên nguyệt lạnh lùng. Thân gái bọt bèo bao xiết kể, Tiếc chăng ơ