Tre Việt Nam
Tre xanh, Xanh tự bao giờ? Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh. Thân gầy guộc, lá mong manh, Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi? Ở đâu tre cũng xanh tươi, Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu. Có gì đâu, có gì đâu, Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều. Rễ siêng
Nội dung bài thơ: Tre Việt Nam
Tre xanh,
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh.
Thân gầy guộc, lá mong manh,
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi,
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu.
Có gì đâu, có gì đâu,
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều.
Rễ siêng không ngại đất nghèo,
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù.
Vươn mình trong gió tre đu,
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành.
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh,
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm.
Bão bùng thân bọc lấy thân,
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm.
Thương nhau tre không ở riêng,
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người.
Chẳng may thân gãy cành rơi,
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng.
Nòi tre đâu chịu mọc cong,
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường.
Lưng trần phơi nắng phơi sương,
Có manh áo cộc tre nhường cho con.
Măng non là búp măng non,
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre.
Năm qua đi, tháng qua đi,
Tre già măng mọc có gì lạ đâu.
Mai sau,
Mai sau,
Mai sau...
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.
Bài thơ Tre Việt Nam của tác giả Nhà thơ Nguyễn Duy - Nguyễn Duy Nhuệ, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Nguyễn Duy - Nguyễn Duy Nhuệ
Nghệ danh: Nguyễn Duy
Tên thật: Nguyễn Duy Nhuệ
Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Nguyễn Duy - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác
Nguyễn Duy, Nhà thơ Nguyễn Duy, Thơ Nguyễn Duy, Tập thơ Cát trắng (1973), Tre Việt Nam
Bát nước ngô của mẹ Việt ở Cam Lộ
Ý nghĩ trong đêm trực của người đỡ đẻ
Hai lần chết của một người lính cộng hoà
Tiếng kèn hiệu trong trận đánh cao điểm X.
Thằng giặc lái bị bắt ăn cơm bằng xác máy bay, uống nước bằng ống rốc-két...
Chuyện cúng giỗ trong ấp chiến lược