Tác giả Hồ Chí Minh - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác

Thơ   •   Thứ sáu, 05/11/2021, 23:08 PM

Tác giả Hồ Chí Minh - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác

Nghệ danh: Hồ Chí Minh

Tên thật: Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc

Cuộc đời và sự nghiệp Cách mạng của Hồ Chí Minh - Nguyễn Sinh Cung

Hồ Chí Minh (chữ Nho: 胡志明; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung (chữ Nho: 阮生恭), là một nhà cách mạng và chính khách người Việt Nam.

Ông là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, từng là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 1945 -1969, Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong những năm 1945–1955, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ 1956 - 1960, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951 đến khi qua đời. Ở Việt Nam, ông thường được gọi là Bác Hồ.

Trong quãng thời gian sinh sống và hoạt động trước khi lên nắm quyền, Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều quốc gia và châu lục, ông được cho là đã sử dụng 50 đến 200 bí danh khác nhau. Về mặt tư tưởng chính trị, Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa Marx – Lenin.

Ông là nhà lãnh đạo phong trào độc lập Việt Minh tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ông cũng là người đã soạn thảo, đọc bản Tuyên ngôn độc lập thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và trở thành Chủ tịch nước sau cuộc tổng tuyển cử năm 1946.

Trong giai đoạn diễn ra chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam, Hồ Chí Minh là nhân vật chủ chốt trong hàng ngũ lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Hồ Chí Minh giảm dần hoạt động chính trị vào năm 1965 vì lý do sức khỏe rồi qua đời vào năm 1969. Năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chiến thắng, hai miền Việt Nam được thống nhất, dẫn đến sự ra đời của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1976. Thành phố Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh để tôn vinh ông cũng như sự kiện này.

Ngoài hoạt động chính trị, Hồ Chí Minh cũng là nhà văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp.

Theo gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng Sen, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An:

"Hoàng sơ tổ khảo là Thái bảo Nguyễn Bá Phụ, tổ đời thứ 2 là Nguyễn Bá Bạc, tổ đời thứ 3 là Nguyễn Bá Ban, tổ đời thứ 4 là Nguyễn Văn Dân,... tổ đời thứ 5, Nguyễn Sinh Vật là Giám sinh đời Lê Thánh Đức (tức Lê Thần Tông) năm thứ 3..., tổ đời thứ 6 là Nguyễn Sinh Tài đỗ Hiếu sinh khi 17 tuổi, năm 34 tuổi đỗ Tam trường khoa thi Hội..., tổ đời thứ 10 là Nguyễn Sinh Nhậm". Cả bốn đời đầu tiên của dòng họ đều chưa lấy đệm là "Sinh" và không rõ năm sinh, năm mất.

Theo nhiều tài liệu chính thống cũng như tiểu sử tại Việt Nam, tên lúc nhỏ của Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Cung (giọng địa phương phát âm là Côông). Tuy nhiên, một số tài liệu ghi nhận tên lúc nhỏ của ông là Nguyễn Sinh Côn.Điều này cũng được chính ông xác nhận bằng chính bút tích của mình trong một bài viết năm 1954.

Quê nội ông là làng Kim Liên (tên Nôm là làng Sen). Nguyễn Sinh Cung được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên Nôm là làng Chùa (Hoàng Trù), nằm cách làng Sen khoảng 2 km) và sống ở đây cho đến năm 1895. Hai làng này vốn cùng nằm trong xã Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn. Quê nội của ông, làng Kim Liên là một làng quê nghèo khó.

Phần lớn dân chúng không có ruộng, phải làm thuê cấy rẽ, mặc quần ít, đóng khố nhiều, bởi thế nên làng này còn có tên là làng Đai Khố. Vào đời ông, phần lớn dòng họ của ông đều cơ hàn, kiếm sống bằng nghề làm thuê, và cũng có người tham gia các hoạt động chống Pháp.

Thân phụ của Hồ Chí Minh là cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng và từng làm việc cho triều Nguyễn, nhưng bị cách chức vì có tinh thần yêu nước thương dân, ông thường có thái độ chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp.

Thân mẫu cụ bà Hoàng Thị Loan là con gái một nhà Nho làm nghề dạy học nên cũng được học ít nhiều, bà tính tình hiền hậu, đảm đang, quen việc đồng áng, dệt vải, hết lòng săn sóc chồng, dạy dỗ các con. Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh và anh là Nguyễn Sinh Khiêm đều vào tù ra tội nhiều lần vì có tham gia chống thực dân Pháp.

Hồ Chí Minh rất khâm phục cuộc khởi nghĩa Cần Vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885-1896), phong trào Đông Du của Phan Bội Châu (1904-1908), Cuộc vận động cải cách do Phan Chu Trinh khởi xướng (1905-1908), Cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu (1885-1913).

Nhưng vượt qua những hạn chế của các nhà yêu nước đi trước, năm 1911 Người quyết định vượt biển sang phương Tây, quê hương của những cuộc cách mạng dân chủ, nơi có nền khoa học và kỹ thuật phát triển để thực hiện mục đích là dành độc lập, tự do. Trước khi xuất dương tìm đường cứu nước Người đã có thời gian học tại các trường học tại Vinh, Huế nên có điều kiện chủ động và nhanh chóng hoà nhập vào xã hội phương Tây.

Người nhanh chóng tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin khi hoạt động trên đất Pháp. Chính vào lúc phong trào cách mạng Pháp đang dâng cao dưới ảnh hưởng tốt đẹp của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và thông qua những đại biểu của những người cùng khổ nhất của nước Pháp, Người đã bắt gặp chân lý cứu nước là chủ nghĩa Mác Lênin. Từ đến với chủ nghĩa Mác Lênin, trở thành người cộng sản đầu tiên ở Việt Nam và là một trong số những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp (1920).

Từ năm 1921 đến 1930, với những hoạt động phong phú và sáng tạo ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc... vừa ra sức học tập nâng cao trình độ lý luận cách mạng vừa tham gia các hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế cộng sản, viết sách, báo, mở lớp huấn luyện đào tạo, truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam một cách hệ thống...

Từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3 tháng Hai 1930) trong những năm tiếp theo, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong hoạt động cách mạng, có thời gian bị bắt và tù đày trong nhà lao đế quốc Anh ở Hồng Kông (1931-1932), Hồ Chí Minh vẫn theo dõi sát sao phong trào cách mạng trong nước, kịp thời đóng góp với Trung ương Đảng ở trong nước nhiều ý kiến cụ thể để chỉ đạo tốt đường lối của Đảng.

Ngày 8 tháng Hai 1941, Người trở về Tổ quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào tháng Năm 1941.

Tháng Tám 1942 với tên gọi mới là Hồ Chí Minh, Người sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam bên đó và lực lượng của Đồng minh. Vừa qua biên giới, Người đã bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch vô cớ bắt giam hơn một năm, qua gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây. Thời gian Người đã viết tập thơ Ngục trung nhật ký, một tác phẩm lịch sử và văn học được đánh giá cao.

Người đã vận dụng thành công học thuyết Mác Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam đưa tới thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời đại mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

Sau ngày Tuyên ngôn độc lập (ngày 2 tháng Chín 1945) tình hình đất nước vô cùng khó khăn, vì giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng do Hồ Chí Minh đứng đầu, nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ với chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội (1954).

Sau giải phóng miền Bắc, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân hai miền Nam, Bắc tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước.

Hồ Chí Minh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến cứu nước, Người chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân, dựa vào sức mạnh chính nghĩa và truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh thắng bọn xâm lược.

Tại Việt Nam, hình ảnh Hồ Chí Minh phổ biến khắp nơi như là một tấm gương sáng về đạo đức, một nhân cách cao thượng và được coi là một hình mẫu cần học tập. Những tác phẩm nói về Hồ Chí Minh thường ca ngợi những đức tính tốt đẹp của ông.

Các cấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân học tập và làm theo tấm gương đạo đức, lối sống của Hồ Chí Minh. Mỗi năm, chính quyền và Đảng bộ đều tổ chức các cuộc thi Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho nội bộ lẫn quần chúng.

Ngoài những phát biểu của chính Hồ Chí Minh và hình vẽ, hình chụp của ông, có nhiều câu nói và khẩu hiệu tuyên truyền lấy cảm hứng từ Hồ Chí Minh, có thể đọc thấy ở mọi nơi, đó là:

  • Đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại!
  • Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
  • Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta!
  • Vì lý tưởng của Bác Hồ vĩ đại, sẵn sàng!

Sự nghiệp sáng tác của Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà cách mạng vĩ đại mà còn là một nhà văn, nhà thơ lớn. Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam di sản văn học có giá trị, gắn liền với tiến trình phát triển của cách mạng và đời sống tinh thần của dân tộc.

Sinh thời, Bác Hồ không hề có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương và Người cũng không bao giờ tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ hay nghệ sỹ mặc dù Bác rất yêu văn thơ và cũng rất đỗi tài hoa.

Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, với lòng yêu nước cháy bỏng, Bác đã quyết tâm tìm đường giải phóng dân tộc và trên con đường hoạt động cách mạng đầy gian khổ ấy, Người nhận ra rằng, văn chương cũng có thể là vũ khí đấu tranh cách mạng. Vì vậy, Người đã dùng văn chương như một vũ khí để phục vụ cách mạng và đã trở thành nhà văn, nhà thơ lớn ngoài ý muốn của mình.

Quan điểm sáng tác nghệ thuật của Bác cũng rất đặc biệt. Người xem văn nghệ là vũ khí, nghệ sĩ là chiến sĩ vì văn chương phải phục vụ cách mạng, phục vụ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chống lại cái ác, cái bất công ngang trái. 

Bác Hồ cũng đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức và tiếp nhận văn chương. Văn chương trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ. Người quan tâm đến quảng đại quần chúng vì Người cho rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.

Văn thơ của Bác nhằm vận động tuyên truyền quần chúng làm cách mạng và Người đã nêu lên một kinh nghiệm chung cho các văn nghệ sĩ, người cầm bút phải xác định rõ: Viết cho ai? Viết để làm gì? Và viết cái gì? Viết như thế nào? và đó chính là ý thức, là trách nhiệm của người cầm bút.

Theo Bác, văn chương phải phản ánh chân thực và hùng hồn cuộc sống và hiện thực cách mạng, chú ý noi gương người tốt việc tốt và uốn nắn phê bình cái xấu. Nhà văn cũng phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề, hình thức của tác phẩm phải hấp dẫn, ngôn từ chọn lọc, bảo đảm sự trong sáng của tiếng Việt.

Sự nghiệp sáng tác văn học của Bác in đậm dấu ấn ở 3 thể loại: văn chính luận, truyện và kí, thơ ca.

Các tác phẩm văn học của Hồ Chí Minh

  • Tuyên ngôn Độc lập. Trong các tác phẩm của ông, có thể nói bản Tuyên ngôn Độc lập do ông biên soạn là có tiếng vang nhất và được sánh vai cùng các bản Tuyên ngôn Độc lập trong lịch sử Việt Nam như Bài thơ Thần Nam quốc Sơn hà và Bình Ngô đại cáo.
  • Bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
  • Đường kách mệnh (1927).
  • Con rồng tre (1922, kịch, đả kích vua Khải Định).[245]
  • Các truyện ngắn: Pari (1922, Nhân đạo), Lời than vãn của bà Trưng trắc (1922, Nhân đạo), Con người biết mùi hun khói (1922, Nhân đạo), Vi hành (1923, Nhân đạo), Đoàn kết giai cấp (1924, Người cùng khổ), Con rùa (1925, Người cùng khổ), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925, Người cùng khổ).[246]
  • Nhật ký trong tù (1942, thơ).
  • Sửa đổi lối làm việc (1947).
  • Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (bút danh Trần Dân Tiên[247][248][249][250])
  • Vừa đi đường vừa kể chuyện (bút danh T. Lan[251][252]). Trong cuốn sách này, Hồ Chí Minh hóa thân thành một cán bộ trong đoàn tùy tùng (T. Lan), đi công tác cùng với Hồ Chí Minh trong rừng núi Việt Bắc và được Hồ Chí Minh vui miệng kể cho nghe nhiều chuyện.
  • Di chúc Hồ Chí Minh

icon Tác giả Hồ Chí Minh,Thơ Hồ Chí Minh,Nguyễn Tất Thành,Nguyễn Sinh Cung,Nguyễn Ái Quốc

Tổng hợp

Tác phẩm tiêu biểu của Hồ Chí Minh

Hoạ thơ Nguyễn Hải Thần

Thơ   •   06.11.2021
Ông biết phần ông, tôi biết tôi, Quyết giành thắng lợi, chẳng chia đôi. Ðã sinh đầu óc, sinh tai mắt, Nỡ bỏ ông cha, bỏ giống nòi. Họ trót sa chân vào miệng cọp, Tôi đành ghé đít cưỡi đầu voi. Cờ tàn mới biết tay cao thấp, Há phải như ai cá đớp mồi.

Bất miên dạ

Thơ   •   06.11.2021
Mang mang trường dạ bất năng miên, Ngã tố tù thi bách kỷ thiên; Tố liễu nhất thiên thường các bút, Tòng lung môn vọng tự do thiên.

Những vần thơ cổ động

Thơ   •   06.11.2021
(A) Thanh niên sức mạnh vô vàn, Tuốt dao trỗi dậy đập tan quân thù. ... Thề cùng quân giặc phen sống mái, Phá tan xiềng xích dựng nước nhà. (B) Đáng kính thay bậc bão nhân, Phơ phơ tóc bạc, tinh thần vẫn cao. Xóm làng hết sức hô hào,

Nhập lung tiền

Thơ   •   06.11.2021
Sơ lai yếu nạp nhập lung tiền, Chí thiểu nhưng tu ngũ thập nguyên; Thảng nhĩ vô tiền bất năng nạp, Nhĩ tương bộ bộ bỉnh ma phiền.

“Chinh phụ ngâm” mới

Thơ   •   06.11.2021
Thuở phe phái hục nhau túi bụi, Đồng bào Nam nhiều nỗi truân chiên. Vì Ngô Đình Diệm rồ điên, Mỹ kia can thiệp, mà nên nỗi này. Hàng nghìn dân chết lây vô tội, Hàng muôn người hấp hối bị thương. Mười muôn nhà cháy ngổn ngang, Đầy trời khói lửa, đầy đ

Cảnh binh đảm trư đồng hành

Thơ   •   06.11.2021
Cảnh sĩ đảm trư đồng lộ tẩu, Trư do nhân đảm ngã nhân khiên. Nhân nhi phản tiện ư trư tử, Nhân vị nhân vô tự chủ quyền. Thế thượng thiên tân hoà vạn khổ, Mạc như thất khước tự do quyền. Nhất ngôn nhất động bất tự chủ, Như ngưu như mã nhậm nhân khiên.

Vãn

Thơ   •   06.11.2021
Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm, Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm. U ám Tĩnh Tây cấm bế thất, Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm.

Lịch sử nước ta

Thơ   •   06.11.2021
Dân ta phải biết sử ta, Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Kể năm hơn bốn ngàn năm, Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà. Hồng Bàng là tổ nước ta. Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang. Thiếu niên ta rất vẻ vang, Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời. Tuổ

Thơ chúc Tết năm 1949 (Kỷ Sửu)

Thơ   •   06.11.2021
Kháng chiến lại thêm một năm mới, Thi đua ái quốc thêm tiến tới. Động viên lực lượng và tinh thần. Kháng chiến càng thêm mau thắng lợi. Người người thi đua. Ngành ngành thi đua. Ngày ngày thi đua. Ta nhất định thắng. Địch nhất định thua.

Đề Tống gia tướng quân miếu thi

Thơ   •   06.11.2021
Tất cánh nhân dân chung tự chủ, Nguỵ Hồ hà tất cán tang thương.

Hoa nghênh thanh niên học quân sự

Thơ   •   06.11.2021
Nước ta mất đã lâu rồi, Đồng bào cực khổ, suốt đời gian nan! Suốt đời chịu kiếp lầm than, Sưu cao thuế nặng, cơ hàn xót xa! Vì ai tan cửa nát nhà, Chồng lìa vợ, con lìa cha tơi bời? Vì ai non nước rã rời Giống nòi sỉ nhục chơi vơi thế này? Vì giặc Nh

Công nhân

Thơ   •   06.11.2021
Thành ai đắp, lầu ai xây? Tàu kia ai đóng, than đây ai sàng? Bao nhiêu của cải kho tàng, Ai đào bạc, ai luyện vàng mà nên? Công nhân sức mạnh nghề quen, Làm ra của cải cho thiên hạ nhờ. Mà mình quần rách áo xơ, Tiền công thì bớt mà giờ thì thêm. Lạ

Tự miễn

Thơ   •   06.11.2021
Một hữu đông hàn tiều tuỵ cảnh, Tương vô xuân noãn đích huy hoàng. Tai ương bả ngã lai đoàn luyện, Sử ngã tinh thần cách kiện cường.

Giải vãng Vũ Minh

Thơ   •   06.11.2021
Ký giải đáo Nam Ninh, Hựu giải phản Vũ Minh; Loan loan, khúc khúc giải, Đồ diên ngã hành trình. Bất bình!

Tặng áo

Thơ   •   06.11.2021
Tết năm nay hoãn thịt xôi Tết sau, thắng lợi sẽ đền bồi Áo bạn biếu tôi, tôi biếu chú Chú mang cho ấm, cũng như tô

Ký Nê Lỗ

Thơ   •   06.11.2021
Ngã phấn đấu thì quân hoạt động, Quân nhập ngục thì ngã trú lung; Vạn lý dao dao vị kiến diện, Thần giao tự tại bất ngôn trung. Ngã môn tao phùng bản thị đồng, Bất đồng đích thị sở tao phùng; Ngã cư hữu giả quyền linh lý, Quân tại cừu nhân cốc trấ

Đường số 5 anh dũng

Thơ   •   06.11.2021
Đường số 5 hơn trăm đồn bốt Dân đường 5 có một lòng son Dù cho sông cạn đá mòn Quyết tâm gìn giữ nước non Lạc Hồng

Nhân đỗ ngã

Thơ   •   06.11.2021
Tòng tiền tống phạn thiên thiên tảo, Hiện tại khai xan trì hựu trì; Huống phục thời gian bất nhất định, Thập, thập nhất, hoặc thập nhị thì.

Cảnh binh đảm trư đồng hành

Thơ   •   06.11.2021
Cảnh sĩ đảm trư đồng lộ tẩu, Trư do nhân đảm ngã nhân khiên. Nhân nhi phản tiện ư trư tử, Nhân vị nhân vô tự chủ quyền. Thế thượng thiên tân hoà vạn khổ, Mạc như thất khước tự do quyền. Nhất ngôn nhất động bất tự chủ, Như ngưu như mã nhậm nhân khiên.

Độc Tưởng công huấn từ

Thơ   •   06.11.2021
Bách chiết bất hồi, hướng tiền tiến, Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên; Quyết tâm, khổ cán dữ ngạnh cán, Tự hữu thành công đích nhất thiên.

Đổ

Thơ   •   06.11.2021
Dân gian đổ bác bị quan lạp, Ngục lý đổ bác khả công khai. Bị lạp đổ phạm thường ta hối, Hà bất tiên đáo giá lý lai!

Báo tiệp

Thơ   •   06.11.2021
Nguyệt thôi song vấn: - Thi thành vị? - Quân vụ nhưng mang vị tố thi. Sơn lâu chung hưởng kinh thu mộng, Chính thị Liên khu báo tiệp thì.

Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo

Thơ   •   06.11.2021
Gia gia kết thái dữ trương đăng, Quốc khánh hoan thanh cử quốc đằng. Ngã khước kim thiên bị bang giải, Nghịch phong hữu ý trở phi bằng.

Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên

Thơ   •   06.11.2021
Ngũ khoa trưởng dữ Hoàng khoa viên, Lưỡng nhị kiến ngã thái khả liên; Ân cần uỷ vấn hoà bang trợ, Giá tượng đông hàn ngộ noãn thiên.

Phỏng Khúc Phụ

Thơ   •   06.11.2021
Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ, Cổ tùng, cổ miếu lưỡng y hy. Khổng gia thế lực kim hà tại? Chỉ thặng tà dương chiếu cổ bi.

Vô đề (I)

Thơ   •   06.11.2021
Thân thể tại ngục trung, Tinh thần tại ngục ngoại. Dục thành đại sự nghiệp, Tinh thần cánh yếu đại.

Đáo Liễu Châu

Thơ   •   06.11.2021
Thiên tân vạn khổ phi vô hạn, Cửu nhật ngô nhân đáo Liễu Châu; Hồi cố bách dư thiên ác mộng, Tỉnh lai diện thượng đới dư sầu.

Dã cảnh

Thơ   •   06.11.2021
Ngã lai chi thì hoà thượng thanh, Hiện tại thu thu bán dĩ thành. Xứ xứ nông dân nhan đới tiếu, Điền gian sung mãn xướng ca thanh.

Đáo trưởng quan bộ

Thơ   •   06.11.2021
Tưởng giá nan quan thị tối hậu, Tự do nhật tử khoái lai lâm; Na tri hoàn hữu nan quan tại: Ngã mẫn ưng cai giải Quế Lâm.

Nhập lung tiền

Thơ   •   06.11.2021
Sơ lai yếu nạp nhập lung tiền, Chí thiểu nhưng tu ngũ thập nguyên; Thảng nhĩ vô tiền bất năng nạp, Nhĩ tương bộ bộ bỉnh ma phiền.

Không đề (III)

Thơ   •   06.11.2021
Bảy mươi tám tuổi chưa già lắm, Vẫn vững hai vai việc nước nhà. Kháng chiến dân ta đang thắng lớn, Tiến bước ta cùng con em ta.

Dạ bán

Thơ   •   06.11.2021
Thụy thì đô tượng thuần lương hán, Tỉnh hậu tài phân thiện, ác nhân; Thiện, ác nguyên lai vô định tính, Đa do giáo dục đích nguyên nhân.

Quách tiên sinh

Thơ   •   06.11.2021
"Bình thủy tương phùng", đàm phiến khắc, Quách quân đối ngã thậm ân cần; "Tuyết trung tống thán" tuy nhiên thiểu, Thế giới nhưng tồn giá chủng nhân.

Vãn

Thơ   •   06.11.2021
Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm, Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm. U ám Tĩnh Tây cấm bế thất, Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm.

Nạn hữu Mạc mỗ

Thơ   •   06.11.2021
Phú gia tử đệ, bần gia giáo, Đổ đảm như thiên, đảm tự châm; "Xa đại pháo tài", chân vĩ đại, Tại tù nhưng tưởng ngật nhân sâm.

Phụ nữ

Thơ   •   06.11.2021
Việt Nam phụ nữ đời đời Nhiều người vì nước, vì nòi hy sinh. Ngàn thu rạng tiếng bà Trưng, Ra tay cứu nước, cứu dân đến cùng. Bà Triệu Ẩu thật anh hùng, Cưỡi voi đánh giặc, vẫy vùng bốn phương. Mấy năm cách mệnh khẩn trương, Chị em phụ nữ thường thườ

Hựu nhất cá

Thơ   •   06.11.2021
Di, Tề bất thực Chu triều túc, Đổ phạm bất ngật công gia chúc. Di, Tề ngã tử Thú Dương sơn, Đổ phạm ngã tử công gia ngục.

Nhân đỗ ngã

Thơ   •   06.11.2021
Tòng tiền tống phạn thiên thiên tảo, Hiện tại khai xan trì hựu trì; Huống phục thời gian bất nhất định, Thập, thập nhất, hoặc thập nhị thì.

Ngọ quá Thiên Giang

Thơ   •   06.11.2021
Đáo Thiên Giang, thuyết Thiên Giang, Thiên Giang giang ngạn mãn xuân sương. Thiên lưỡng địch xa thành hắc tận, Hồng quân trực đáo Trấn Nam Quan.

Mừng xuân nguyên đán thế nào

Thơ   •   06.11.2021
Trăm năm trong cõi người ta, Cần kiệm xây dựng nước nhà mới ngoan, Mừng Xuân, Xuân cả thế gian Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới Xuân.

Vãng Nam Ninh

Thơ   •   06.11.2021
Thiết thằng ngạnh thế ma thằng nhuyễn, Bộ bộ đinh đang hoàn bộ thanh. Tuy thị hiềm nghi gián điệp phạm, Nghi dung khước tượng cựu công khanh.

Nhất cá đổ phạm “ngạnh” liễu

Thơ   •   06.11.2021
Tha thân chi hữu cốt bao bì, Thống khổ cơ hàn bất khả chi. Tạc dạ tha nhưng thuỵ ngã trắc, Kim triêu tha dĩ cửu tuyền quy.

Bất miên dạ

Thơ   •   06.11.2021
Mang mang trường dạ bất năng miên, Ngã tố tù thi bách kỷ thiên; Tố liễu nhất thiên thường các bút, Tòng lung môn vọng tự do thiên.

Thu dạ

Thơ   •   06.11.2021
Trù hoạch canh thâm tiệm đắc nhàn, Thu phong thu vũ báo thu hàn. Hốt văn thu địch sơn tiền hưởng, Du kích quy lai tửu vị tàn.

Cảm ơn người tặng cam

Thơ   •   06.11.2021
Cảm ơn bà biếu gói cam Nhận thì không đúng, từ làm sao đây Ăn quả nhớ kẻ trồng cây Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai.

Chết vì ốm đòn

Thơ   •   06.11.2021
Tướng giặc Tátxinhi Tháng trước về Pari, Rồi thì nó khai ốm, Không biết ốm bệnh chi? Chắc là nó ốm đòn. Nó chết mất thằng con, Lại thua luôn mấy trận, Ruột nó đã héo mòn. Chiến dịch Quang Trung, Tát thua lung tung, Chiến dịch Đề Thám, Tát thua mặt xá

Tặng Tiểu Hầu (Hải)

Thơ   •   06.11.2021
Ấu nhi học dã, tráng nhi hành, Thượng trung đảng, quốc, hạ trung dân; Kiệm cần, dũng cảm hòa liêm chính, Vô phụ Lương công giáo dục tình.

Đề Đức Môn động kỳ 2

Thơ   •   06.11.2021
Thử động chân chính hảo, Thắng tỷ Thất Tinh nham. Việt nhân đáo thử xứ, Mạc bất tâm khai nhan.

Tảo giải

Thơ   •   06.11.2021
Nhất thứ kê đề dạ vị lan, Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san. Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng, Nghênh diện thu phong trận trận hàn. Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng, U ám tàn dư tảo nhất không. Noãn khí bao la toàn vũ trụ, Hành nhân thi hứng hố

Trẻ con

Thơ   •   06.11.2021
Trẻ em như búp trên cành, Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan, Chẳng may vận nước gian nan, Trẻ em cũng bị bận thân cực lòng. Học hành, giáo dục đã không, Nhà nghèo lại phải làm công, cày bừa. Sức còn yếu, tuổi còn thơ, Mà đã khó nhọc cũng như ngườ

Thơ chúc Tết năm 1952 (Nhâm Thìn)

Thơ   •   06.11.2021
Xuân này, Xuân năm Thìn Kháng chiến vừa 6 năm Trường kỳ và gian khổ Chắc thắng trăm phần trăm. Chiến sĩ thi giết giặc Đồng bào thi tăng gia Năm mới thi đua mới Thắng lợi ắt về ta. Mấy câu thành thật nôm na Vừa là kêu gọi vừa là mừng Xuân.

Quá Hồ Bắc

Thơ   •   06.11.2021
Ngã khứ điền gian đô bạch tuyết, Ngã lai điền mạch dĩ thanh thanh. Minh thiên cơ giới thế mộc giới, Ức triệu nông gia lạc thái bình.

Nữ anh hùng Nguyễn Thị Bươi

Thơ   •   06.11.2021
Người Long Động, tỉnh Quảng Yên; Hai mươi bốn tuổi, tính hiền và ngoan. Từ ngày giặc đánh vào làng, Chị đánh du kích tỏ gan anh hùng. Việc gì chị cũng xung phong, Khiến cho đồng đội càng hăng thêm nhiều. Chiến tranh càng khó bao nhiêu, Tinh thần càng

?!

Thơ   •   06.11.2021
Không không khổ liễu tứ thập thiên, Tứ thập thiên khổ bất thăng nghiên; Hiện tại hựu yếu giải phản Liễu, Chân thị linh nhân muộn hựu phiền.

Vãng Nam Ninh

Thơ   •   06.11.2021
Thiết thằng ngạnh thế ma thằng nhuyễn, Bộ bộ đinh đang hoàn bộ thanh. Tuy thị hiềm nghi gián điệp phạm, Nghi dung khước tượng cựu công khanh.

Tầm hữu vị ngộ

Thơ   •   06.11.2021
Bách lý tầm quân vị ngộ quân, Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân. Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ, Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.

Nhập Tĩnh Tây huyện ngục

Thơ   •   06.11.2021
Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm Thiên thượng tình vân trục vũ vân Tình vũ phù vân phi khứ liễu Ngục trung lưu trú tự do nhâ

Thư vợ gửi chồng

Thơ   •   06.11.2021
Ba bốn năm trời luống nhớ thương Nhớ chàng lưu lạc tại tha hương Tóc thề đã chấm ngang vai thiếp Luỵ nhớ e chưa ráo mắt chàng Thù nước thù nhà chàng gắng trả Việc nhà việc cửa thiếp xin đương Bao giờ đuổi sạch quân thù địch Ta sẽ sum vầy ở cố hương

Song thập nhất

Thơ   •   06.11.2021
Tòng tiền mỗi đáo Song thập nhất, Kỷ niệm Âu châu bãi chiến kỳ; Kim nhật ngũ châu đồng huyết chiến, Tội khôi tựu thị ác Nazi. Trung Hoa kháng chiến tương lục tải, Liệt liệt oanh oanh cử thế tri; Thắng lợi tuy nhiên hữu bả ác, Nhưng tu nỗ lực phản cô

Lạc liễu nhất chích nha

Thơ   •   06.11.2021
Nhĩ đích tâm tình ngạch thả cương, Bất như lão thiệt nhuyễn nhi trường. Tòng lai dữ nhĩ đồng cam khổ, Hiện tại đông tây các nhất phương.

Tặng công an nhân dân vũ trang

Thơ   •   06.11.2021
Đoàn kết, cảnh giác, Liêm, chính, kiệm, cần; Hoàn thành nhiệm vụ, Khắc phục khó khăn; Dũng cảm trước địch, Vì nước quên thân; Trung thành với Đảng, Tận hiếu với dân.

Công nhân quốc tế

Thơ   •   06.11.2021
Tinh thần quốc tế công nhân Quý giá nghìn vàng há dễ cân Giai cấp cần lao trong bể khổ Một lòng ủng hộ với tương thâ

Ngục trung sinh hoạt

Thơ   •   06.11.2021
Mỗi nhân các hữu nhất hoả lô, Đại đại, tiểu tiểu kỷ cá oa; Chử phạn chử trà hựu chử thái, Thành thiên yên hoả một thì vô.

Cảnh báo (Thập nhất nguyệt thập nhị nhật)

Thơ   •   06.11.2021
Địch cơ hạo đãng đáo thiên trung, Tỵ tập nhân dân bào nhất không; Ngã mẫn xuất lung tỵ không tập, Nhân nhân hoan hỉ đắc xuất lung.

Xuân tiết tặng tửu cấp Trung Quốc cố vấn đoàn

Thơ   •   06.11.2021
Nghinh xuân vô biệt quỹ, Duy hữu tửu sổ tôn. Thỉnh nhĩ môn nhất tuý, Cộng khánh thắng lợi xuân.

Thơ vợ gửi chồng đi làm cách mạng

Thơ   •   06.11.2021
Anh hỡi anh, chồng hỡi chồng, Từ ngày ly biệt thiếp nay trông mai chờ. Cha già mẹ yếu con thơ, Nuôi già dạy trẻ, em cậy nhờ vào đâu? Đói no bữa cháo bữa rau, Tuy lao khổ em dám đâu phàn nàn. Đêm khuya em tự hỏi han, Vì ai ta phải lìa tan thế này? Anh

Thơ chúc Tết năm 1944 (Giáp Thân)

Thơ   •   06.11.2021
... Xuân ơi, Xuân hỡi, hỡi Xuân, Từ xa tới gần, xuân khắp mọi nơi. Rót cốc rượu xuân, mừng cách mạng, Viết bài chào Tết, chúc thành công.

Thơ chúc Tết năm 1953 (Quý Tị) bài 1

Thơ   •   06.11.2021
Toàn thể chiến sĩ thi đua giết giặc, Đồng bào cả nước đoàn kết một lòng, Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi, Độc lập thống nhất, nhất định thành công.

Thơ chúc Tết năm 1945 (Ất Dậu)

Thơ   •   06.11.2021
Tết năm mới nhà báo xin chúc: Chúc Đồng Minh đánh "Trục" tan thây. Bốn phương năm bắc đông tây, Trên nền máu lửa chóng xây hoà bình. Chúc Liên Xô hùng binh mãnh tướng Nhắm Bá Linh thuận hướng đến mau. Chúc Anh - Mỹ tại Tây Âu, Nhanh chân nh

Cấm yên (Chỉ yên đích)

Thơ   •   06.11.2021
Yên cấm thử gian hẩn lệ hại, Nhĩ yên kiểu nhập tha yên bao; Đương nhiên tha khả xuy yên đẩu, Nhĩ nhược xuy yên, phạt thủ liêu.

Thư gửi đồng chí Vương Đàm

Thơ   •   06.11.2021
Bạn từ Trung Quốc sang đây, Tặng cho bạn hữu trái cây quá nhiều. Ăn rồi tấm tắc khen đều, Cám ơn và chúc bạn nhiều bình yên.

Đề Đức Môn động kỳ 1

Thơ   •   06.11.2021
Tam Thai đối diện điểu thanh điềm, Lưu thuỷ sàn sàn bạn ngã miên. Tẩu biến thiên nhai thiên lý lộ, Tàng thân thử động tối an toàn.

Vọng Thiên San

Thơ   •   06.11.2021
Dao vọng Thiên San phong cảnh hảo, Tử hà, bạch tuyết bão thanh san. Triêu dương sơ xuất xích như hoả, Vạn đạo hào quang chiếu thế gian.

Ngọ

Thơ   •   06.11.2021
Ngục trung ngọ thuỵ chân như phục, Nhất thuỵ hôn hôn kỷ cú chung. Mộng kiến thừa long thiên thượng khứ, Tỉnh thời tài giác ngoạ lung trung.

Dã cảnh

Thơ   •   06.11.2021
Ngã lai chi thì hoà thượng thanh, Hiện tại thu thu bán dĩ thành. Xứ xứ nông dân nhan đới tiếu, Điền gian sung mãn xướng ca thanh.

Tháp hoả xa vãng Lai Tân

Thơ   •   06.11.2021
Kỷ thập nhật lai lao tẩu lộ, Kim thiên đắc tháp hoả xa hành; Tuy nhiên chỉ đắc toạ thán thượng, Tất cánh tỷ đồ bộ phiêu lương.

Văn thung mễ thanh

Thơ   •   06.11.2021
Mễ bị thung thì, hẩn thống khổ, Ký thung chi hậu, bạch như miên; Nhân sinh tại thế dã giá dạng, Khốn nạn thị nhĩ ngọc thành thiên.

Thính kê minh

Thơ   •   06.11.2021
Nhĩ chỉ bình thường nhất chích kê, Triêu triêu báo hiểu đại thanh đề. Nhất thanh hoán tỉnh quần lê mộng, Nhĩ đích công lao dã bất đê.

Ngục trung sinh hoạt

Thơ   •   06.11.2021
Mỗi nhân các hữu nhất hoả lô, Đại đại, tiểu tiểu kỷ cá oa; Chử phạn chử trà hựu chử thái, Thành thiên yên hoả một thì vô.

Dạ bán văn khốc phu

Thơ   •   06.11.2021
Ô hô phu quân, hề phu quân! Hà cố phu quân cự khí trần? Sử thiếp tòng kim hà xứ kiến, Thập phần tâm hợp ý đầu nhân.

Nguyên tiêu

Thơ   •   06.11.2021
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên, Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên. Yên ba thâm xứ đàm quân sự, Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo

Thơ   •   06.11.2021
Gia gia kết thái dữ trương đăng, Quốc khánh hoan thanh cử quốc đằng. Ngã khước kim thiên bị bang giải, Nghịch phong hữu ý trở phi bằng.

Bang

Thơ   •   06.11.2021
Hĩnh tí trường long hoàn nhiễu trước, Uyển như ngoại quốc vũ huân quan. Huân quan đích thị kim ti tuyến, Ngã đích ma thằng nhất đại đoan.

Con cáo và tổ ong

Thơ   •   06.11.2021
Tổ ong lủng lẳng trên cành, Trong đầy mật nhộng, ngon lành lắm thay! Cáo già nhè nhẹ lên cây, Định rằng lấy được ăn ngay cho dòn. Ong thấy cáo muốn cướp con, Kéo nhau xúm lại vây tròn cáo ta. Châm đầu, châm mắt cáo già, Cáo già đau quá phải sa xuống

Thu dạ (I)

Thơ   •   06.11.2021
Môn tiền vệ sĩ chấp thương lập, Thiên thượng tàn vân bạng nguyệt phi; Mộc sắt tung hoành như thản khắc, Mân trùng tụ tán tự phi ky; Tâm hoài cố quốc thiên đường lộ, Mộng nhiễu tân sầu, vạn lũ ti; Vô tội nhi tù dĩ nhất tải, Lão phu hòa lệ tả tù thi.

Thơ chúc Tết năm 1963 (Quý Mão)

Thơ   •   06.11.2021
Mừng năm mới, Cố gắng mới, Tiến bộ mới, Chúc Quý Mão là năm nhiều thắng lợi!

Chiết tự

Thơ   •   06.11.2021
Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc, Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung; Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại, Lung khai trúc sản, xuất chân long.

Tám điều cần thiết

Thơ   •   06.11.2021
Nước phải đủ, phân phải nhiều, Cày sâu, giống tốt, cáy đều dảnh hơn; Trừ sâu, diệt chuột chớ quên, Cải tiến nông cụ là nền nhà nông; Ruộng nương quản lý ra công, Tám điều đầy đủ, thóc bông đầy bồ.

Việt hữu tao động (Ung báo, Xích đạo tấn 14-11)

Thơ   •   06.11.2021
Ninh tử, bất cam nô lệ khổ, Nghĩa kỳ đáo xứ hựu phiêu dương; Khả liên dư tố tù trung khách, Vị đắc cung thân thướng chiến trường.

Thơ trong nhật ký

Thơ   •   06.11.2021
Bảy, tám chục năm giời mất nước Các cụ già uất ức lầm than Mắt trông nước mất nhà tan Giống nòi sỉ nhục, giang san thẹn thùng Đã thấy Phan Đình Phùng khởi nghĩa Đã thấy vùng Yên Thế đánh Tây Nước non vẫn...

Long An – Đồng Chính

Thơ   •   06.11.2021
Thử gian thổ địa quảng nhi bần Sở dĩ nhân dân kiệm thả cần Thính thuyết kim xuân phùng đại hạn Thập phân thu hoạch lưỡng tam phân.

Tặng toàn quyền Đờ-cu

Thơ   •   06.11.2021
Non nước Rồng Tiên rõ mịt mù, Lợi quyền phó mặc bố thằng Cu. Đối dân Nam Việt thì lên mặt, Gặp bọn Phù Tang chỉ đội khu! Về Pháp, không cơm e chết đói, ở đây, hút máu béo ni-nu. Cũng như thống chế Pê-tanh vậy, Chú cứ cu cù được mãi ru!

Dương Đào bệnh trọng

Thơ   •   06.11.2021
Vô đoan bình địa khởi ba đào, Tống nhĩ Dương Đào nhập toạ lao; "Thành hoả trì ngư" kham hạo thán, Nhi kim nhĩ hựu khái thành lao.

Khán “Thiên gia thi” hữu cảm

Thơ   •   06.11.2021
Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ, Sơn thuỷ yên hoa tuyết nguyệt phong; Hiện đại thi trung ưng hữu thiết, Thi gia dã yếu hội xung phong.

Lai Tân

Thơ   •   06.11.2021
Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ, Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền; Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự, Lai Tân y cựu thái bình thiên.

Tặng thống chế Pê-tanh

Thơ   •   06.11.2021
Vận mệnh Lang Sa lúc chẳng lành, Pêtanh lão tướng hoá hôi tanh, Cúi đầu, quỳ gối, hàng quân Đức, Trợn mắt, nhăn mày, chửi nước Anh. Bán nước lại còn khoe cứu nước, Ô danh mà muốn được thơm danh. Già mà như chú, già thêm dại, Tiếng xấu muôn đời nhuốc

Tặng Tiểu Hầu (Hải)

Thơ   •   06.11.2021
Ấu nhi học dã, tráng nhi hành, Thượng trung đảng, quốc, hạ trung dân; Kiệm cần, dũng cảm hòa liêm chính, Vô phụ Lương công giáo dục tình.

Song thập nhất

Thơ   •   06.11.2021
Tòng tiền mỗi đáo Song thập nhất, Kỷ niệm Âu châu bãi chiến kỳ; Kim nhật ngũ châu đồng huyết chiến, Tội khôi tựu thị ác Nazi. Trung Hoa kháng chiến tương lục tải, Liệt liệt oanh oanh cử thế tri; Thắng lợi tuy nhiên hữu bả ác, Nhưng tu nỗ lực phản cô

Quách tiên sinh

Thơ   •   06.11.2021
"Bình thủy tương phùng", đàm phiến khắc, Quách quân đối ngã thậm ân cần; "Tuyết trung tống thán" tuy nhiên thiểu, Thế giới nhưng tồn giá chủng nhân.

Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo

Thơ   •   06.11.2021
Đồng chu cộng tế nghĩa nan từ, Thế hữu biên tu báo cáo thư. "Phụng thử", "đẳng nhân" kim thuỷ học, Đa đa bác đắc cảm ân từ.