Đò dọc sông đêm
(Trích Trường ca)
Nội dung bài thơ: Đò dọc sông đêm
(Trích Trường ca)
Kính dâng Mẹ và Quê
Đò dọc - sông đêm
Chòng chành thuyền xuôi nhịp sóng
Đỏng đảnh mảnh trăng đầu tháng
Sông ngà vẩy bạc lăn tăn
Như là bơi giữa sông Ngân
Sao trời xé hình lưỡi mác
Lao xao tiếng cười tiếng hát
Tôi thành trẻ lạc Bồng Lai
Chập chờn ruộng lúa bờ khoai
Sông Cày gợi về quê kiểng
Tóc em gợn mùa bưởi chín
Mắt huyền lúng liếng sông đêm
Bờ ơi! Người lạ, bến quen
Đêm chẳng chia người quen lạ
Đêm chẳng để em xấu hổ
Khi tôi vô tình cầm tay
Chiêu Trưng - Người rã hội ngày
Mình tôi thơ thẩn bến Cày, đò đêm
Phải thần, phải thánh xui em
Hay vì trời đất vốn quen ỡm ờ
Bàn tay chưa hết hững hờ
Sóng lòng đã rộn đôi bờ sông đêm
Người ơi! Bờ lạ, bến quen
Sáng rồi anh dắt tay em lên chùa
Sông dài, nhẹ mái chèo đưa
Đường đây đến đó chắc vừa hết đêm
I. Huyền thoại núi Hồng
Hình như có tiếng đàn chim
Bay về từ trang huyền thoại
Cánh vỗ mơ hồ xa ngái;
Như từ tít chín tầng mây
Mẹ bảo: xưa chim về đây
Đậu kín non Hồng trăm nhỏn
Đàn chim lông hồng, đốm trắng
Mắt biếc sao trời, kiêu sa
Mẹ bảo: chưa có bao giờ
Đàn phượng hoàng oai đến thế
Dang cánh tung vờn sóng bể
Đuôi dài tha thướt mây mưa
Núi Hồng như có châu sa
Lam Giang lắng dòng quên chảy
Chim Phượng đầu đàn lộng lẫy
Đảo mình ngó khắp bốn phương.
Một dải:
Hoành Sơn chắn mặt Nam
Hồng Lĩnh vờn phía Bắc
Dãy Trường Sơn chạy dọc
Sóng biển Đông giăng ngang
Ba phía ngút rừng xanh
Một bên trùng bể biếc
Gió đồng ngân khúc nhạc
Hồ trong gợn sóng lòng
Nước trăm mạch, trăm sông
Chảy xuôi cùng một hướng
Thế hổ chầu, long cuộn
Cảnh gấm dệt, vóc thêu...
Phượng đầu đàn khẽ kêu:
"Dải đất này đẹp quá!
Qua bao vùng quen lạ
Chưa nơi đâu sánh bằng"
Cả bầy chim đồng thanh:
"Dừng đây thôi. Tuyệt! Tuyệt!"
Cây bỗng xanh da diết
Đồng rực rỡ muôn hoa
Sông Lam cùng sông La
Lại ồn ào dậy sóng
Cả một vùng Ngàn Hống
Chim thú hát ca vang
Hát rằng:
Núi không cao, biển không sâu
Người chưa đông, đất chưa giàu
Độc đạo một đường Nam - Bắc
Đông - Tây nối tận năm châu
Nắng nỏ trái đời thêm ngọt
Bão giông gốc rễ càng bền
Việt Thường dẫu chìm vào đất
Khí thiêng sông núi càng thiêng
Đất này: địa linh - nhân kiệt
Đất này: muối mặn, gừng cay
Đất này: đá mềm chân cứng
Chim lạc chim hồng đừng bay...
Chim lạc chim hồng đừng bay!
Sải cánh kiêu sa chùng xuống
Mây trắng rẽ hình cánh phượng
Đuôi dài vuốt tóc xòe ra
*
Lời đồn đại tự ngàn xưa
Chim thần đi tìm đất đế
Nơi nào đàn chim chịu ở
Nơi đó sẽ là kinh đô
Vì sao ông Đùng khổng lồ
Chẳng xây đủ trăm ngọn núi?
Vì sao đàn chim huyền thoại
Không là chín mươi chín con?
Và từ chót vót chon von
Sải cánh uy quyền chững lại
Một phút giận - hờn - tiếc - nuối
Bóng hồng vút thẳng trời Nam...
* * *
Nín đi! Đừng khóc. Kìa em
Gạt sương đuôi mắt đợi xem chim về
Dẫu là sải đến muôn quê
Chim hồng chim lạc chẳng chê đất nghèo
Bóng xưa da diết mỗi chiều
Ráng mây chín đỏ câu Kiều thiết tha
Dáng xưa gần gũi chan hòa
Trên lưng mẹ buổi nắng nhòa mưa chan
Lá tơi xếp cánh đại ngàn
Chiếc khăn mỏ phượng đoan trang thuở nào
Mớ ba mớ bảy yếm đào
Như là đuôi phượng ghim vào thời gian
Miếng trầu cánh phượng bà têm
Cay từ nỗi nhớ đêm đêm góp thành
Hồng Lĩnh đỏ, dòng Lam xanh
Hiền hòa, chung thủy, đất lành đợi chim.
II. Nơi ấp trứng
Trứng Rồng nở ra Rồng. Lũ Rồng con chúng tôi lớn lên trong chiếc tổ cong cong hình chữ ét (S), đầu gối lên núi Bắc, chân gác sóng biển Nam. Chiếc tổ như dáng rồng bay lượn, như dáng hình con sóng, chênh vênh bên nước bên non, chênh vênh nối Trời với Đất. Lũ Rồng con không vương miện, không lòe loẹt sắc màu, ở với đất có màu nâu bùn đất, ở với rừng nhuốm màu chàm màu lục, ở với sông có vẩy bạc vây trong. Trăm năm rắn thành tinh, ngàn năm Rồng cứ là Rồng, giữa vần vũ mây mưa vẫn mơ mòng phun châu nhả ngọc.
; Những nhà thông thái nói: Mọi sinh vật bắt đầu từ nước. Mẹ tôi bảo: Cá gáy vượt Vũ Môn để hóa ra Rồng. Tôi đến Vũ Môn, nơi giao thoa giữa Trời với Đất, thấy ngọn thác từ chín tầng trời rơi vào trang cổ tích, thấy chín tầng mây chất chồng lẫn vạt ngô non (có phải cha ông tôi xưa dựng nên đỉnh Giăng Màn, cho cá gáy hóa Rồng qua màn mây trướng gió) - gió chẳng vô tình, mây không buông thả cứ hát khúc nghìn năm con cháu Tiên Rồng.
Em nhìn kia: Phía ráng đỏ là cuối dòng sông; nơi lát nữa vừng dương sẽ mọc, nơi gặp gỡ của nguồn non mạch nước và con đò đêm chúng mình sẽ cập bến Long Ngâm. Long Ngâm - vẫn là những thân rồng xoắn quện vào nhau thành hình hài xứ sở - đã nghe nồng mặn xóm diêm, xóm chài, sóng lay bờ đá... muôn âm thanh hòa tấu tự Thiên Cầm vọng mãi Đèo Ngang. Kỳ vĩ thắng cảnh, xúc động bởi chiến công, một dải non xanh nước biếc trập trùng mà hội tụ bao thăng trầm lịch sử. Đứng ở đây, em có nghe tiếng đàn trời thả vào trong âm âm sóng gió, tiếng mười vạn tiền quân cùng Lý Thường Kiệt vượt Đèo Ngang vào Ô, Rí bình Chiêm; mười vạn hậu quân reo làm yên lòng vua Trần và quân dân Đại Việt; mười vạn trung quân theo voi Nguyễn Huệ đập tan lũ xâm lược kiêu hùng...
Đứng ở đây nhìn ra ba phía núi, những vỏ trứng Rồng lúp xúp ẩn hiện mây mưa, tôi biết rõ vỏ trứng nào sinh đế, sinh vương, vỏ trứng nào sinh thi nhân dũng tướng.
Cám ơn mẹ Âu Cơ khéo khâu chiếc tổ Rồng cheo leo trên bán đảo để khúc ruột miền Trung thành nơi ấp trứng sinh nở anh hào. Những đứa con của Long Quân vươn vai đi mở nước, không vương miện trên đầu mà rực rỡ trời sao.
Và chính em - những gái cưng của mẹ - đảm đang, chung thủy, dịu hiền. Em chẳng biết mình là vành nôi của bao thế hệ, lời ru ngọt ngào cho đất nước hồi sinh.
III. Lay thức
Tình cờ tôi tìm được cuốn lý lịch ông tôi chuột đã gặm bốn bề, nanh vuốt thời gian bập vào quá khứ. Từng con chữ long lanh như mảnh thủy tinh vỡ soi vào tôi bằng giọt mắt ngấn sương.
Chẳng hiểu vì bận bịu hay vô ý thức mà tôi đánh mất dần những gì còn lại của tổ tiên, đánh mất một thời vinh quang và cay đắng. Để lúc chiêm ngưỡng các tượng đài, lướt qua nhà truyền thống, tôi trầm trồ thán phục như trước các chiến tích siêu nhân... (...)
Trước mặt tôi là ngày mai. Sau lưng tôi là quá khứ. Tôi đón nhận Ngày Mai dửng dưng. Tôi vĩnh biệt Hôm Qua thờ ơ như người buồn ngủ. Tôi vô tư nuốt những tháng ngày ngắn ngủi tạo hóa ban cho. Ngửa mặt lên trời tu chén rượu, liếc mắt xuống đất kiếm nụ hoa. Bầu trời đầy mây bông mà tôi không nghĩ được tôi chẳng thể so với những chùm mây lơ đãng ấy. Mây hợp, mây tan, mây rữa thành mưa bụi nhưng mây vẫn là mây trong vũ trụ xoay vần. Bông hoa nào cũng xinh tươi và mới mẻ. Bên cạnh bông đang chuyển nụ còn chỗ của bông hôm qua đã tan vào gió chẳng để lại hình hài. Tôi không được như mây: tái tạo. Tôi không được như hoa: rực rỡ một thời.
Tôi là tôi thôi: lu mờ, hờ hững, nhỏ nhoi, nếu sôi động chút nào - có chăng - cũng vì miếng ăn tấm mặc, cũng vì gió lay mưa thức trong xôn xao chợ búa kiếp người. Tôi là tôi thôi: kẻ mắc nợ trần gian như chúa Chổm - nợ bầu trời một ngụm ô xy, nợ cánh đồng một bông lúa chín, nợ mẹ đôi bầu sữa lép với câu đò đưa bên cánh võng ngọt ngào. Tôi nợ giọt mồ hôi trượt qua nếp hằn trên trán bố, nợ cây đa đầu làng chìa râu cho tôi đu võng tuổi thơ.
Tôi nợ con sông quê khi vùi tấm thân lấm láp giữa dòng trong vắt, sông gột rửa tôi bằng giọt lòng, gạn những gì tôi bỏ lại, lắng đọng đôi bờ thành dịu ngọt phù sa.
Tôi là tôi thôi: một sớm giật mình nhìn những mẫu chữ thủy tinh chuột gặm, cuống cuồng chạy đi nhặt nhạnh chắp nối quá khứ tiền nhân. Cha ông tôi chứ đâu phải thiên thần. Những mẫu chữ kết vào nhau thành sợi xích nối tôi với các thế hệ xa xưa, sợi xích kéo tôi ngược dòng thời gian nhưng không lạc vào vườn cổ tích. Nơi tôi đến là nơi rất thực và tôi đã tìm ra báu vật của mình.
Lịch sử ông cha - Lịch sử xuyên qua nắng - mưa - máu - lửa. Những trang huyền thoại kia truyền từ đời này sang đời nọ là để thi vị hóa cuộc trường tồn gian khổ trên dải đất chênh vênh. Lịch sử ông cha tôi có hình dạng tảng băng: một phần nổi, ba phần chìm, kẻ vô tâm chẳng thể nào hiểu được. Ai dám bảo chín chín đỉnh non Hồng không phải là ẩn số. Ai chưa dám; tin Kinh Dương Vương từng tọa lạc nơi này. Đàn chim Phượng vô tình vỗ cánh hay tôi vô tình để một mắt xích còn thất lạc đâu đây?
Đừng dùng mũi xà beng cậy vào núi đá mong khơi lên cổ vật ngàn đời, sau đám mây ảo mờ Hương Tích, nàng Diệu Thiện ôm nguyệt cầm cất tiếng hát chơi vơi. Nàng hát về dải đất hẹp phơi mình trong gió cát, những người nông dân một nắng hai sương tần tảo nuôi đời. Rằng giọt mồ hôi trên hạt thóc củ khoai cũng mặn không kém gì muối chưng lên từ biển. Rằng: Chẳng phải ngẫu nhiên mà hạt lúa cũng tự mình hai đầu biết nhọn. Rằng: Dòng Lam trong xanh bởi đầu nguồn Ngàn Sâu, Ngàn Phố xanh trong. Ôi! Cám ơn nàng đã nhắc ta lẽ sống: Cội nguồn.
Nàng kể: Từ nền Trang Vương nhìn ra bốn phía, phía nào cũng đầy ắp giai điệu thơ - phú - dân ca. Lời kẻ sĩ mịn như Hoa Tiên, đẹp như Kiều, nghênh ngang như Uy Viễn. Lời phường cấy, phường cày mộc mạc vè dặm; tha thiết giọng đò đưa, phường vải, ca trù.
Nàng kể rằng: Những chiếc áo tơi xù lông trong nắng hạ, những cặp môi thắm trầu chín đỏ buổi chiều đông cứ xôn xao bốn phía ruộng đồng lời vấn vít yêu đương cùng bao chuyện nhân tình thế sự...
Cái giàu đang ở tương lai - cái nghèo chưa thành quá khứ. Những câu ca muôn thuở giăng mắc cõi lòng...
IV. Viết từ những câu ca
"Yêu quê yêu nhất cánh đồng"
Đồng chua sông mặn cò không lối về
Nghìn năm vẫn mái tranh quê
Mẹ tôi tơi lá nón mê chống trời
"Tháng ba trong nước em ơi"
Củ khoai tím cả vỏ ngoài ruột trong
Mẹ làm cánh vạc mom sông
Cha buồn như lão Thần Nông mất mùa
Đói lòng nên mỗi câu ca
Cũng thơm "rau muống với cà dầm tương"
* * *
Đất nghèo hạt chữ câu cơm
áo nâu lộn trái đỡ sờn nắng mưa
Lát bầu héo ủ thành dưa
Mít non làm nhút, khế chua làm quà
Bát chè xanh nóng xuýt xoa
Đêm thanh trăng tỏ nhà nhà ới nhau
* * *
Chẳng là "phên dậu" gì đâu
Mà xa cuối đất mà sâu cùng trời
Chiến chinh khói lửa tơi bời
Một gang đất lệch mấy thời binh đao
Phế - Hưng? Cũng chốn quân vào
Thớt voi, vó ngựa, chiến bào chen nhau
Đèo Ngang đá xám còn nhàu
So chi hoa lúa đọt màu non tơ
Thuyền chật biển, súng ken bờ
Nghìn năm nước dựng - mấy giờ dân yên?
* * *
Chắp tay con vái tổ tiên
Ngực trần dám chịu hòn tên hai bề
Cũng vì yêu đất thương quê
Nghĩa nhân ban phát, gom về bão giông
Ăn đầu gió, ngó cuối sông
Giọng trầm âm đục mà lòng thanh cao
Dẫu dũng tướng dẫu thi hào
Hồn cha tình mẹ lặn vào máu tim.
V. Mai Hắc Đế
Mẹ ơi bảy nổi ba chìm
Cây đa, bến nước, sân đình mẹ đâu?
Vai gầy oằn nặng khổ đau
Lá trầu còn thắm buồng cau đã lìa
Cha con phận mỏng không về
Đã đành chưa trọn lời thề nước non
Nhưng mà còn mẹ? Còn con
Tổ tiên ta đó và còn ngày mai...
Đường duyên ngắn, quãng nợ dài
Mẹ ơi! Hạt muối làng Mai xát lòng.
Sức trai bế cả non Bờng
Lôi dãy Long Ngâm chồng lên chót vót
Sức trai chẳng bế nổi mùa giáp hạt
Muối trắng làng Mai trắng mắt dân nghèo
Gió Lào tràn lên xóm lúa nắng thiêu
Không gạo
Không khoai
Muối thay cơm sao đặng?
*
Mấy trăm năm từ độ gieo lông ngỗng
Gót giày quân Bắc xéo non sông
Núi cao Mã Viện yểm cột đồng
Lừa dân Cao Biền gieo trò phù thủy[1]
Viên ngọc trai từ tăm tăm đáy bể
Cặp sừng tê hun hút cuối rừng sâu...
Vòi bạch tuộc bọn xưng danh "Thiên tử"
Vét tận cùng đọi cháo đĩa rau
Mẹ nhịn nhục nuôi ta thành tráng sĩ
Ta vươn vai làm cột trụ chống trời
Con Rồng Đen từ sông Cày cửa Sót
Thua kém gì Thiên tử? Mẹ yêu ơi!
Đòn gánh tre vung lên - toang đầu giặc
Một tiếng hô sấm sét dậy muôn lần
"Bảy trăm năm người Nam ta có Đế"
Quả vải quê nhà làm bữa tiệc khao quân
Nâng quả ngọt chắt chiu từ cằn cỗi
"Nào chạm nhau, những trai tráng quê mùa
Ta xưng Đế cho dân Nam có chủ
Với bạn bè ta vẫn Cu Đen xưa".
"Ta xưng Đế cho dân Nam có chủ
Ôi Vua Đen! Mai Hắc Đế oai hùng"
Cơn gió lớn quét quang trời Giao Chỉ
Từ quả trứng Rồng bên núi Long Ngâm.
[1] Mã Viện và Cao Biền: Hai viên tướng Trung Quốc từng đô hộ nước ta trong thời kỳ Bắc thuộc.
Bài thơ Đò dọc sông đêm của tác giả Nhà thơ Bùi Quang Thanh, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Bùi Quang Thanh
Nghệ danh: Bùi Quang Thanh
Tên thật: Bùi Quang Thanh
Xem thêm: Tiểu sử Tiểu sử, cuộc đời, tác phẩm và phong cách sáng tác thơ Bùi Quang Thanh
Nhà thơ Bùi Quang Thanh, Thơ Bùi Quang Thanh
Trái đất này đâu chỉ của hôm nay
Gửi nghệ sỹ nhiếp ảnh Minh Chiến
Nỗi nhớ này cháu phải viết thành thơ
Thơ vui nhân họp báo về dân số
Phần một, Phần hai & Phần ba tập "Bùi Quang Thanh Thơ"
Viết sau trận thắng của tuyển bóng đá VN trước Singapore
Lời bày tỏ của người thợ sơn tràng
Chùm: Những câu thơ rất khó xuống dòng
Tản mạn từ Blog Bùi Quang Thanh
Tiếng nói nhà văn: Tháng bảy mưa ngâu
Bên tượng đài anh hùng Phan Đình Giót
Viết nhân sự kiện Trường Sa và an ninh Biển Đông
Thư ngỏ gửi các nhà lãnh đạo Trung cộng