Chùm: Những câu thơ rất khó xuống dòng
Tôi nhặt lên niềm vui ai đó bỏ quên bên đường phố, thả vào chiếc cốc cuộc đời. Niềm vui lặn xuống đáy, còn nỗi buồn tràn ra ngoài miệng cốc. Niềm vui vay mượn không hề sủi bọt trong chính đời tôi. Nỗi buồn của ai cứ quấn lấy tôi như máu thịt.
Nội dung bài thơ: Chùm: Những câu thơ rất khó xuống dòng
Bài I: SONG HÀNH
Tôi nhặt lên niềm vui ai đó bỏ quên bên đường phố, thả vào chiếc cốc cuộc đời. Niềm vui lặn xuống đáy, còn nỗi buồn tràn ra ngoài miệng cốc. Niềm vui vay mượn không hề sủi bọt trong chính đời tôi. Nỗi buồn của ai cứ quấn lấy tôi như máu thịt.
Đêm cô đơn. nỗi buồn bò trên da lưng tê tê những bàn chân nhện. Xoáy vào trong khói thuốc tôi phả qua đình màn. Một nỗi buồn bị cắt thành trăm nỗi buồn. Trăm nỗi buồn bay đi trăm phương để sáng nay màu sương bàng bạc. Để sáng nay, nỗi buồn bám răn reo trên mặt người hành khất; trên đôi nạng gỗ không tiền tân trang màu sơn lở loét; trên mái tóc khô rơm còng queo của em bé bụi đời...
Sự chênh lệch nỗi buồn - niềm vui như Trời với Đất. Hôm nào cô bé bán bia ôm gục đầu vào vai tôi khóc suốt, em không nhận những đồng tiền thương xót của tôi. Lại hôm qua, cô bé nhà bên đi mừng sinh nhật bạn, chiếc xe đạp mi ni Tàu không cánh mà bay...
Mắt chưa kịp cười, mắt kia đã khóc. Niềm vui như mụn vá mới mà nỗi buồn như tấm áo cuối đời - luôn song hành cùng tôi.
Bài II: NƠI ẤP TRỨNG *
Trứng Rồng nở ra Rồng! Lũ Rồng con chúng tôi lớn lên trong chiếc tổ cong cong hình chữ S (ét), đầu gối lên núi Bắc, chân gác sóng biển Nam. Chiếc tổ như dáng rồng bay lượn, như dáng hình con sóng, chênh vênh bên nước bên non, chênh vênh nối Trời với Đất.
Lũ Rồng con không vương miện, không lòe loẹt sắc màu, ở với đất có màu nâu bùn đất; ở với rừng nhuốm màu chàm, màu lục; ở với sông có vẩy bạc, vây trong. Trăm năm rắn thành tinh. Ngàn năm Rồng cứ là Rồng, giữa vần vũ mây mưa vẫn mơ màng phun châu nhả ngọc.
Những nhà thông thái nói: "Mọi sinh vật bắt đầu từ nước" (?) Mẹ tôi bảo: "Cá Gáy vượt thác Vũ Môn để hóa ra Rồng!" Tôi đến Vũ Môn, nơi giao thoa giữa trời và Đất, thấy ngọn thác từ chín tầng trời rơi vào trang cổ tích, thấy chín tầng mây chất chồng lẫn vạt ngô non. Có phải cha ông tôi xưa dựng nên đỉnh Giăng Màn cho Cá Gáy hóa Rồng qua màn mây trướng gió? Gió chẳng vô tình, mây không buông thả, cứ hát khúc ngàn năm con cháu Tiên - Rồng...
Em nhìn kia: phía ráng đỏ là cuối dòng sông - nơi lát nữa vừng dương sẽ mọc, nơi gặp gỡ của nguồn non mạch nước và con đò đêm chúng mình sẽ cặp bến Long Ngâm.
Long Ngâm, vẫn là những thân rồng xoắn quện vào nhau thành hình hài xứ sở. Đã nghe nồng mặn xóm diêm, xóm chài, gió lay bờ đá, muôn âm thanh hòa tấu tự Thiên Cầm vọng mãi Đèo Ngang. Kỳ vĩ vì thắng cảnh, xúc động bởi chiến công, một dải non xanh nước biếc trập trùng mà hội tụ bao thăng trầm lịch sử. Đứng ở nơi đây em có nghe tiếng đàn trời phả vào trong âm âm sóng gió: tiếng Mười vạn tiền quân cùng Lý Thường Kiệt vượt Đèo Ngang vào Ô, Rí bình Chiêm; Mười vạn hậu quân reo làm an lòng vua Trần và quân dân Đại Việt; Mười vạn trung quân theo voi Nguyễn Huệ đập tan lũ xâm lược kiêu hùng. Đứng ở đây nhìn ra ba phía núi, những vỏ trứng rồng lúp xúp ẩn hiện mây mưa, tôi biết rõ vỏ trứng nào sinh đế, sinh vương, vỏ trứng nào sinh thi nhân, dũng tướng.
Cám ơn Mẹ Âu Cơ khéo khâu chiếc tổ rồng cheo leo trên bán đảo, để khúc ruột miền Trung thành nơi ấp trứng sinh nở anh hào; những đứa con của Long Quân vươn vai đi mở nước không vương miện trên đầu mà rực rỡ trời sao.
Và chính em - những gái cưng của Mẹ, đảm đang, chung thủy, dịu hiền - em chẳng biết mình là vành nôi của bao thế hệ, lời ru ngọt ngào cho đất nước hồi sinh.
Bài III: LAY THỨC**
Tình cờ tôi tìm được cuốn lý lịch ông tôi chuột đã gặm bốn bề, nanh vuốt thời gian bập vào quá khứ, từng con chữ long lanh như mảnh thủy tinh vỡ soi vào tôi bằng giọt mắt ngấn sương. Chẳng hiểu vì bận bịu hay vô ý thức mà tôi đánh mất dần những gì còn lại của tổ tiên, đánh mất một thời vinh quang và cay đắng. Để lúc chiêm ngưỡng các tượng đài, lướt qua nhà truyền thống, tôi trầm trồ thán phục như trước các chiến tích siêu nhân. Thì ra lũ chuột thính mũi nhọn răng lại ưa máu thịt cha ông đẫm trong lịch sử...
Trước mặt tôi là Ngày Mai. Sau lưng tôi là Quá Khứ. Tôi đón nhận Ngày Mai dửng dưng. Tôi vĩnh biệt Hôm Qua thờ ơ như người buồn ngủ. Tôi vô tư nuốt những tháng ngày ngắn ngủi tạo hóa ban cho. Ngửa mặt lên trời tu chén rượu. Liếc mắt xuống đất kiếm nụ hoa... Bầu trời đầy mây bông mà tôi không nghĩ được tôi chẳng thể nào so với những chùm mây lơ đãng ấy: mây hợp, mây tan, mây rữa thành mưa bụi nhưng mây vẫn là mây trong vũ trụ xoay vần. Bông hoa nào cũng xinh tươi và mới mẻ, bên cạnh bông đang chuyển nụ còn chỗ của bông hôm qua đã tan vào gió chẳng để lại hình hài. Tôi không được như mây: tái tạo. Tôi không được như hoa: rực rỡ một thời. Tôi là tôi thôi: lu mờ, hờ hững, nhỏ nhoi... nếu sôi động chút nào (có chăng) cũng vì miếng ăn tấm mặc, cũng vì gió lay mưa thức trong xôn xao chợ búa kiếp người.
Tôi là tôi thôi - kẻ mắc nợ trần gian như Chúa Chổm. Nợ bầu trời một ngụm ô xi, nợ cánh đồng một bông lúa chín; nợ mẹ đôi bầu sữa lép với câu đò đưa bên cánh võng ngọt ngào. Tôi nợ giọt mồ hôi trượt qua nếp hằn trên trán bố, nợ cây đa đầu làng chìa râu cho tôi đu võng tuổi thơ. Tôi nợ con sông quê khi vùi tấm thân lấm láp của mình giữa dòng trong vắt, sông gột rửa tôi bằng giọt lòng, gạn những gì tôi bỏ lại, lắng đọng đôi bờ thành dịu ngọt phù sa.
Tôi là tôi thôi, một sớm giật mình nhìn những mẩu chữ thủy tinh chuột gặm, cuống cuồng chạy đi nhặt nhạnh chắp nối quá khứ tiền nhân, ông cha tôi chứ đâu phải thiên thần; những mẩu chữ xếp vào nhau thành sợi xích kéo tôi ngược dòng thời gian nhưng không lạc vào vườn cổ tích; nơi tôi đến là nơi rất thực và tôi đã tìm ra báu vật của mình.
Lịch sử ông cha, lịch sử xuyên qua nắng - mưa - máu - lửa. Những trang huyền thoại kia truyền từ đời này sang đời nọ là để làm thi vị hóa cuộc trường tồn gian khổ trên dải đất chênh vênh. Lịch sử ông cha tôi có hình dạng tảng băng: một phần nổi, ba phần chìm - kẻ vô tâm chẳng thể nào hiểu được.
Ai dám bảo chín mươi chín đỉnh non Hồng không phải là ẩn số? Ai chưa dám tin Kinh Dương vương từng tọa lạc nơi này? Đàn chim phượng vô tình vỗ cánh hay tôi vô tình để một mắt xích còn lưu lạc nơi đây?
Đừng dùng mũi xà beng cậy vào đá núi mong khơi lên cổ vật ngàn đời. Dưới đám mây ảo mờ Hương Tích, nàng Diệu Thiện ôm nguyệt cầm cất tiếng hát khơi vơi. Nàng kể về giải đất hẹp phơi mình trong gió cát, những người nông dân một nắng hai sương tần tảo nuôi đời; rằng giọt mồ hôi trên hạt thóc, củ khoai cũng mặn không kém gì muối chưng lên từ biển; rằng: chẳng phải ngẫu nhiên mà hạt lúa cũng tự mình hai đầu biết nhọn; rằng: dòng Lam xanh trong bởi có đầu nguồn Ngàn Sâu, Ngàn Phố xanh trong. Cám ơn nàng đã cho ta lẽ sống: cội nguồn.
Nàng kể: từ nền Trang Vương nhìn ra bốn phía, phía nào cũng đầy ắp giai điệu thi - phú - dân ca; lời kẻ sĩ mịn như Hoa Tiên, đẹp như Kiều, nghênh ngang như Uy Viễn; lời phường cấy, phường cày mộc mạc giọng đò đưa; thiết tha câu phường vải, ca trù...
Nàng kể về những chiếc áo tơi xù lông trong nắng hạ, những cặp môi chín trầu thắm đỏ buổi chiều đông cứ xôn xao bốn phía ruộng đồng lời vấn vít yêu đương cùng bao chuyện nhân tình - thế sự...
Cái giàu đang ở tương lai. Cái nghèo chưa thành quá khứ. Những câu ca muôn thuở dăng mắc cõi lòng.
Hà Tĩnh, 1998
* , **: Trích trong trường ca "Đò dọc - sông đêm".
Bài IV: DÁNG MẸ
Con không hình dung nổi Mẹ khi dẫn đàn con đạp núi xuống đồng bằng; con chẳng thể hình dung những ngón chân trần lần đầu tiên víu lên mép biển. Mái nhà Đông Trường Sơn thì dốc thế kia, lổn nhổn đá tai mèo trắng lòa mép sóng.
Bàn tay không của người mẹ trẻ, những bàn tay không của đám trai tráng đang khao khát trưởng thành, từ cheo leo làng bản xuống chài lưới định canh, con ốc con cua bữa đầu thay tôm cá.
Ai trong số những người con của Mẹ trở thành thần Khoai, thần Lúa? Ai đóng cối xay? Ai ghép ván lướt thuyền? Mảnh buồm đầu tiên căng gió ra khơi làm bằng vỏ cây hay bằng phên tre nứa?
Cô gái nào là dâu đầu chị cả biết kết nón quai thao, biết đan áo tơi chằm? Điệu hát đầu tiên ru trẻ dưới đồng bằng có na ná câu then câu lượn?
Ai cho con tằm ăn lá dâu thay lá sắn để kén thành tơ, tơ thành lụa, mớ ba mớ bảy dập dìu? Vôi bạc trầu cay đắng chát hạt cau ai ghép chúng nên đôi nên lứa?
Cha độc mộc ngược sông Hồng, sông Mã. Mẹ nhớ thương đâu bến đợi, bến chờ? Bình minh lên sau những gọng vó bè, hoàng hôn rớt cuối lửa nương, khói rẫy.
Cha và Mẹ giã từ hạnh phúc lứa đôi đi tìm miền Đất Hứa, dời núi chuyển non tạo lập đồng bằng. Rất nhiều năm sau người châu Âu rẽ sóng dõi trăng tìm ra châu Mỹ, châu Đại Dương - cũng vẫn từ đam mê chinh phục.
Mẹ là người đàn bà đầu tiên trong cổ tích dựng nước non bằng một bọc trứng Rồng.
Đất nước vững bền tự bốn ngàn năm, ai tạc nổi dáng hình của Mẹ?
Lời hương khói*
Khúc 1
Trước khi lẫn vào thinh không khói bếp Mẹ nhen níu mãi vào rơm rạ. Giọt buồn cay xè mái lá. Cao rộng trời mây không gói nổi khôn cùng của kẻ ly hương.
Mắt Mẹ mờ sau bụi bặm thời gian. Khói thành mây, nắng thành sương, lá vàng rưng rưng vườn cũ.
Nón lá áo tơi treo chùng vách nhớ. Vòi hái cong, lưỡi liềm cong ngoéo một thuở ruộng đồng.
Con đi. No tròn ba lô con cóc sau lưng. Hoa cỏ may găm đầy quần bộ binh đũng chấm ngang đầu gối.
Khúc 2
Mỗi quả thị vàng đều mơ thành Cô Tấm: Thảo thơm giặt giũ, bếp núc tương cà, lúng túng đánh rơi hài đêm hội dân ca.
Gốc tre già dãi dầu bão giông, gió mưa quăng quật tơi bời vẫn khát khao mãi là thành lũy.
Mẹ dâng hiến cho đời những gì mình có. Hạnh phúc được phân thân qua mỗi kỳ sinh nở, hạnh phúc được sẻ chia trong vụn vặt đời thường.
Đôi vai gầy gánh trăm mùa lúa, xuyên vạn ngày sương, gánh cả thời con gái qua sông, Cha vào Vệ quốc quân, Mẹ chẳng để nhớ thương biến thành Tô Thị.
Mẹ dạy: Chim có tổ, cáo có rừng. Mẹ đếm từng ngày kị ông, giỗ cố. Mẹ mòn lưỡi lừa cá xương bù giọt sữa kiệt khô trong bầu vú xanh gầy. Mẹ ngắm con tằm khôn lớn trên tay mà không dám chờ ngày tằm nhả tơ thành lụa.
Khúc 3
Cơn sốt bất ngờ bắt con nằm lại, đêm lạc rừng khắc khoải tiếng từ quy. Cánh võng Tô Châu quây tròn tổ kén ủ con tằm chống những cơn run.
Mấy quả dâu rừng chiều nao đồng đội hái, tê tê đầu lưỡi mềm lại bờ môi, lỗ thủng vô tình trên bọc võng xanh xanh một đốm sao trời. Là mắt Mẹ dõi tìm con chăng Mẹ? Giọt mắt khô hút bóng con về, đồng tử tia hình sao năm cánh, chập chờn cơn tỉnh, cơn mê...
Đêm rừng già đơn lạnh. Gió ngàn ru lời Mẹ xa đưa. Đồng đội ơi! Sau giòn giã tiểu liên, trầm hùng đại bác, lộc xuân xanh chồi có khuất nẻo mòn xưa? Và Bình Minh - khi nhịp cầu nối lại, gương mặt Người sẽ rực rỡ nhường bao, đừng dồn hết hào quang soi mắt Mẹ, sau rạng ngời là diệu vợi niềm đau.
Đôi gót trẻ chưa dầm hết chín phương trời đất, chưa thành vai sắt chân đồng trên đôi dép tuột quai. Thằng con Mẹ háu ăn chóng đói, trân trân ngó mãi sao trời...
Khúc 4
Nghèn nghẽn tiếng "ầu ơ...", cánh võng không bàn tay hụt hẫng. Cuối vườn thu vơi bay từng sợi nắng, rứt gì lòng Mẹ? Thu ơi! Khói hương thơm đến lạnh người. Ngọn khói: tóc mây - chân hương: nguồn cội. Kẽo kẹt từ vồng tre ấm bụi "tre già măng mọc" mà thương.
Nơi Mẹ tiễn con đi - Nơi Mẹ ngóng con về - nơi đồng vọng. Sừng sững tượng đài Chiến thắng - Đìu hiu dáng Mẹ lưng còng.
Sao con là ráng mây hun hút cuối tầm, là ngọn buốt thổi phơ thêm mái tóc?
Con là khói mây bay giữa trời Tổ quốc, mãi không cùng trong lòng mẹ bao la.
Thành Sen, cuối năm 1997
*: Bài đoạt giải thưởng cuộc thi Tổng Cục Chính trị QĐNDVN và tạp chí Văn nghệ quân đội "Hướng tới giao thừa thiên niên kỷ 1998-1999)
BÀI VI MỘT THOÁNG CHÂN TIÊN
Tuỳ bút thơ
Biển dát bạc. Thuyền giong buồm. Làng Thịnh lượn quanh quanh mép sóng như chiếc đòn tre oằn nặng chở một đầu núi Bờng và đầu kia là dãy Tiên An. Mấy mươi năm rồi giờ đây lại mở hội làng. Gã tiều phu ngày nào gặp tiên đang say sưa kể chuyện:
Buổi sáng ấy mây quang trời lặng, gã đắm mình trong giấc sơn lam. Chợt hương thơm từ đâu bay đến ngào ngạt núi rừng, tay rẽ lá cây gã nhìn xuống núi. Giụi mắt ba lần gã cũng chưa tin nổi khi thấy bốn cô tiên trên nước biếc tắm…tiên. Chuyện xa xưa giờ bao kẻ vẫn thèm (mắt trộm liếc xuống bàu Tiên nắng nhuộm).
Đường lên Chân Tiên, sau lưng ta biển vẫn dập dìu điệu ru ngàn đời của sóng. Trước mặt ta: bên này núi cao, dưới kia hồ rộng, áng mây trời chớp trắng cò bay.
Người! Cơ man là người.
Đá! Nhấp nhô những đá.
Lạ thay! Giữa chốn thôn mạc ruộng đồng, đất như khô cằn, người như lam lũ, lại có một miền xanh hội tụ buổi thanh minh trong tiết tháng ba.
Nào! Ta cùng bạn lên rừng. Con đường đá ngoằn ngoèo khúc khuỷu. Tảng lờ trước những đôi mắt huyền quyến rũ. Khấp khểnh đưa chân trên từng bậc đá lì, trơn. Một thoáng thôi, vầng trán vừa kịp rịn mồ hôi, bao cảnh lạ đã phô bày trước mặt. Kìa! Bàu Tiên ngăn ngắt, hình thế như bàn chân một khách siêu phàm. Triền núi ôm nước biếc miên man; ba bề núi, một phía làng thấp thoáng. Tinh một tý (xa xa sau làn nắng) xinbạn đừng reo - có ngà ngọc ngâm mình. Truyền thuyết kể rằng dấu tích bàu Tiên là cú nhún của Đế Thiên khi nhảy lên bàn cờ đá. Bạn chẳng tin ư? Thì dấu xưa còn đó: này tướng, này quân, này bàn, này…chổ các ông ngồi tóc trắng đã thành mây. Vệt đá lún sâu vừa vặn dấu hài nho nhỏ xinh xinh trên triền đá xám – là chổ bốn nằng tiên xuống tắm- bắt gặp ánh mắt ai, cả thẹn loáng về Trời. Nhẹ như tiên vẫn lún đá, người ơi? Bạn đừng e lệ khi so hài dấu cũ.
Nào! Đi lên.Men qua những gốc thông già mành tơ buông rũ, ngôi đền Tiên nằm giữa mộng mơ. Người chen vai trong nến đỏ sương mờ. lá cờ Phật tung bay vừa gần vừa ảo. Thắp nén hương trước những gì xưa cũ, trong lòng thầm ước cảnh ngày mai; vẫn đá, vẫn cây, vẫn dấu tích, vẫn người… nhưng tiên cảnh thêm bàn tay độ thế. Ai mải mê nhìn đôi trai gái trẻ, hai mái đầu xanh chụm sát trước linh môn. A! ngày mai cậu ấy sẽ lên đường, mắt cô gái cay sè sau làn khói trắng. Một lời nguyện chỉ Đất – Trời nghe đặng mà xao lòng muôn ngọn sóng trùng khơi. Nước da nâu của cậu cả xóm chài chợt ửng khi chạm bờ môi thôn nữ. Nhớ nghe em, dù ngày mai chân trời góc bể, lòng vẫn bên lòng như tình của Mẹ - Cha. Như Đá Ông luôn bên cạnh Đá Bà. Chốn động thạch, non Hồng – nơi hẹn hò tao ngộ.
Mấy trăm năm rồi ai đặt Tiên An Tự để quây quần động đá giữa ngàn mây. Nhẹ gót thôi, mời bạn rẽ lối này; nước giếng ngọc xanh trong như sương sớm. Vốc ngụm nước giữa mây trời ngọt mát, soi nụ cười như thuở trước ai soi. Là giếng ư? Hay gương của người trời nhỡ rớt lại khi vội vàng xiêm áo?
Ông cha mình với bao nhiêu hoài vọng nên ở cõi trần vẫn gần gũi cảnh tiên, nên hang động hoang sơ hoá nơi ở thánh hiền, một viên đá cũng thành quân, thành tướng. Ông cha mình quen dãi dầu mưa nắng, mảnh thuyền nan dám xé sóng ngàn khơi; trong khó khăn cây mạ lớn cùng người; vẫn mặn muối cay gừng trong đạo nghĩa.
Nhân kiệt – Địa linh. Hẳn là phải thế!
Một vùng non nước đâu chỉ có thánh thần và tên tuổi hư không, Chân Tiên, 3/1996
BÀI VII TRƯỚC CÂY SI BUÔN ĐÔN
Rừng núi muôn năm lắng vào gốc si già, già mà vẫn toả lan nghìn mạch sống.
Bám vào đất, vào sông, vào mưa, vào nắng, cuộc sống trường tồn trong mỗi búp non tơ. Những mầm xanh xanh đến không ngờ, độc lập, cộng sinh: đất trời hoà quện. Sông cứ chảy, gió cứ xô, mây cứ trôi, thời gian đi và đến…gốc si này bám chặt mãi Buôn Đôn.
Rừng thiếu đất cây bám vào sông. Sông chảy về đâu? Cây níu sông ở lại. Dòng Sê Rê Pốc quẩn quanh trước khi về xa ngái, ph ải tình rừng quấn quýt quá? Sông ơi! Qua dáng cây thấy dáng núi, dáng người: tồn tại, kế thừa, mở mang, phát triển. Buôn Đôn ơi, một lần ai đã đến chẳng thể nào kìm nén được tình…si
Chiếc đàn T’rưng – rung rinh nhịp cầu tre, mềm mại run trong gió ngàn sương núi. Em gái Buôn Đôn vai gùi lên rẫy. chàng trai Buôn Đôn ngất ngưởng bành voi. Duyên dáng tà váy ngắn. Bình dị mảnh khố dài. Cái đẹp, cái hùng ngự trị miền hoang dã. Bình yên hôm nay ánh qua từng mắt lá. Bão táp ngày qua lặn dưới vạn thân cành. Cao nguyên xanh. Tây Nguyên xanh. Trời đất điệp trùng xanh. Cuộc sống dâng hương từ buôn làng, ruộng rẫy…
Cồng chiêng gióng lên!
Lửa trại cháy lên!
Lễ hội vòng đời, vòng cây, loang loáng những bước chân; những vòng bạc, vòng đồng, váy thêu thổ cẩm. Nào Đam Sam, DDăm Di, Xinh Nhã…giáo khiên chân đất đầu trần. Rượu cần ngọt môi người chín đỏ; Điệu xoang dập dồn như sông chảy, đá lăn.
Ô cây si! Ta cũng là cây si rễ cắm đất Buôn Đôn. Ta chôn chân nơi đây. Ta chết lặng nơi đây. Ta không về được nữa. Cơm lam em đốt, cà đắng em xiên. Đừng ru ta rằng “Có thương nhau thì về Buôn Ma Thuột”.
Hãy cho rễ si ta bám đất.
Hãy cho lá si ta xanh mát giữa trời.
Buôn Đôn ơi…
Tháng 7/2005
Bài thơ Chùm: Những câu thơ rất khó xuống dòng của tác giả Nhà thơ Bùi Quang Thanh, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Bùi Quang Thanh
Nghệ danh: Bùi Quang Thanh
Tên thật: Bùi Quang Thanh
Xem thêm: Tiểu sử Tiểu sử, cuộc đời, tác phẩm và phong cách sáng tác thơ Bùi Quang Thanh
Tác giả Bùi Quang Thanh, Thơ Bùi Quang Thanh
Bên tượng đài anh hùng Phan Đình Giót
Trái đất này đâu chỉ của hôm nay
Lên Chùa Hương qua đập nhà Đờng
Gửi nghệ sỹ nhiếp ảnh Minh Chiến
Hãy lên tiếng mạnh mẽ để dựng nên sóng dữ ngăn chặn ý đồ cướp biển của giặc Trung Quốc.
Viết sau trận thắng của tuyển bóng đá VN trước Singapore
Tiếng nói nhà văn: Tháng bảy mưa ngâu
Phần một, Phần hai & Phần ba tập "Bùi Quang Thanh Thơ"
Lời bày tỏ của người thợ sơn tràng
Nỗi nhớ này cháu phải viết thành thơ