Tác giả Tố Hữu - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác
Tác giả Tố Hữu - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác
Nghệ danh: Tố Hữu
Tên thật: Nguyễn Kim Thành
Cuộc đời và sự nghiệp của Nhà thơ Tố Hữu
Tố Hữu (1920-2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh tại làng Phù Lai, gần cố đô Huế. Tố Hữu đến với thi ca khá sớm, từ năm 18 tuổi. Cùng năm đó, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4/1939, ông bị quân Pháp bắt. Tháng 3/1942, ông vượt ngục Đác Giây, tiếp tục hoạt động cách mạng ở Thanh Hoá. Cách mạng tháng Tám, Tố Hữu làm Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa Huế.
Trong 2 cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã sáng tác rất nhiều bài thơ để cổ vũ tinh thần cho chiến sĩ và nhân dân, gắn liền với suốt chiều dài lịch sử kháng chiến. Nổi tiếng nhất là những bài thơ như Việt Bắc, Lượm, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Nam máu và hoa, Từ Cu-ba,...
Năm 1946, tập thơ đầu tay Từ ấy ra đời, tập hợp các tác phẩm viết từ 1937 đến 1946, chia làm ba phần: Máu lửa (27 bài), Xiềng xích (30 bài) và Giải phóng (14 bài). Ba phần thơ là ba chặng hoạt động cách mạng của Tố Hữu. Chặng đầu là cái nhìn hiện thực, tố cáo xã hội đương thời, gắn với lòng say mê lý tưởng xoá áp bức bất công, xây dựng cuộc sống hạnh phúc, nhân ái. Chặng thứ hai là thơ trong tù, với những bài thơ xuất sắc của một tâm hồn chiến sĩ đa cảm. Chặng cuối là thơ vận động cách mạng tiến tới khởi nghĩa và cách mạng thành công - những bài thơ say đắm, sôi sục và hào hùng. Với Từ ấy, Tố Hữu lấy lại lòng tin vào đường lối văn học cách mạng cho cả nhà văn lẫn bạn đọc, khẳng định phẩm chất thẩm mỹ mới của thơ Việt Nam.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, thơ Tố Hữu với các bài Phá đường, Bầm ơi... cùng với thơ ca của phong trào quần chúng đã trở thành một gợi ý có sức thuyết phục về phương pháp sáng tác hiện thực - lấy cuộc sống thực tế làm cốt lõi của thơ, hướng cảm xúc của công chúng vào những tình cảm cao cả đánh giặc cứu nước. Tập thơ Việt Bắc là tiếng hát của toàn dân kháng chiến. Với lời thơ bình dị, Tố Hữu đã đi từ tâm tình cá thể đến tâm tình của cộng đồng, phát hiện và biểu dương những tình cảm cao cả. Từ Việt Bắc, hình ảnh người dân yêu nước được khắc hoạ và trở thành biểu tượng mỹ học cho một giai đoạn thơ ca.
Năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, những kế hoạch 5 năm xây dựng đất nước được triển khai. Tập thơ Gió lộng thể hiện nỗi niềm phấn chấn của người xây dựng đất nước: “Gió lộng đường khơi rộng đất trời”. Thời kỳ này, thơ Tố Hữu cũng lộng gió, đó là gió của tâm hồn với Em ơi Ba Lan, Mẹ Tơm, Người con gái Việt Nam, Tiếng chổi tre...
Ra trận là tập thơ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đề tài mở rộng như đánh dấu những sự kiện chính trị, quân sự của đất nước, trong đó có Lá thư Bến Tre, có lời dặn của anh Trỗi, có kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du, có nước mắt khóc Hồ chủ tịch... Mỗi bài thơ cho thấy Tố Hữu có khuynh hướng khái quát thời đại. Ông hướng tới những tình cảm phổ quát, cộng hưởng được với lòng người. Đề tài trong thơ ông rất thời sự mà ý thơ thấm thía, sâu, bền.
Tập thơ gần đây nhất của Tố Hữu là Một tiếng đờn. Ông vẫn thuỷ chung với nguồn đề tài của đời sống cách mạng, của toàn đất nước. Đôi khi tưởng chạm tới một điều gì riêng tư của tuổi cuối đời nhìn lại: “Đêm cuối năm riêng một ngọn đèn”. Ở tập thơ này, Tố Hữu trở về bút pháp nội tâm, rất gần với thời kỳ Từ ấy. Có một sự đấu tranh nội tâm rất mạnh: “Mới bảy mươi sao đã gọi là già”. Bút pháp không tung hoành hào sảng mà trầm xuống trong chiêm nghiệm. Trong cái bình đạm của giọng thơ, có sức rắn lại của ý chí: “Ta lại đi, như từ ấy ra đi; Lòng hăm hở tưởng như mình trẻ lại”.
Sau một thời gian bệnh nặng, ông đã tạ thế vào 9h15’ ngày 9/12/2002 tại Bệnh viện 108. Tố Hữu được coi là một con chim đầu đàn của thi ca Việt Nam hiện đại. Có những giai đoạn, thơ ông đã trở thành chỗ dựa tâm hồn cho mọi người. Ông từng kinh qua nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước: Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ.
Tố Hữu vẫn luôn được ngợi ca như là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, được tôn vinh là “nhà thơ của cách mạng”, “nhà thơ của nhân dân”, “ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam”, “người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam”, "một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng - Nghệ thuật - Tình yêu”, “nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng”.
Nhận xét về ông, Trần Đăng Khoa viết :
"Tố Hữu là một nhà thơ lớn. Nói đúng hơn, ông là nhà thơ lãng mạn cách mạng. Cả cuộc đời ông gắn bó với cách mạng. Thơ với đời là một. Trước sau đều nhất quán. Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông dường như chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ca ngợi cách mạng. Đọc ông trong bất cứ hoàn cảnh và tâm trạng nào, ta cũng thấy phấn chấn, náo nức như đi trẩy hội. Đến đâu cũng nghe vang tiếng trống, tiếng kèn. Mà thơ ông đâu chỉ có trống phách linh đình như một đám rước, ông còn bắn cả 21 phát đại bác vang trời. Cho đến nay, chỉ có ông là nhà thơ Việt Nam duy nhất đã bắn đại bác trang trọng như thế."
(Chân dung và đối thoại - Trần Đăng Khoa )
Nhưng Tố Hữu 'bị' một nhận xét từng gây rúng động văn đàn Việt Nam một thời kỳ của Nhà văn Xuân Sách trong tập Chân dung nhà văn. Cũng chính tập thơ này đã trở thành bước ngoặt của cuộc đời Xuân Sách. Trong bài thơ vẽ chân dung Tố Hữu bằng cách ghép tên các tác phẩm Tố Hữu lại, Xuân Sách viết:
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta
Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường, hoa ở đây.
Nói thêm thông tin: Tập thơ Chân dung nhà văn gồm 100 chân dung 100 nhà văn, nhà thơ được viết bằng thơ (đa phần là thơ tứ tuyệt) của Xuân Sách viết từ năm 1962 đến 1992 mới được in thành sách. Song, ngay từ khi ra đời từng chân dung thì Chân dung nhà văn đã được “truyền miệng” rộng rãi không chỉ trong giới văn nghệ mà cả trong đông đảo công chúng văn nghệ.
Sự tiếp nhận của người đọc, nhất là trong giới văn nghệ, đặc biệt là những người có tên trong danh sách 100 chân dung thật đa dạng với đủ các cung bậc phản ứng khác nhau. Có một chi tiết thật bất ngờ là có một số người phản đối Chân dung nhà văn chỉ vì không có chân dung của mình, cứ như là phải được Xuân Sách viết chân dung thì mới là nhà văn có giá! Có thể nói tập thơ Chân dung nhà văn của Xuân Sách là một hiện tượng văn học độc nhất vô nhị của văn học Việt Nam hiện đại.
Đời sống riêng tư
Khi đang là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa thời kỳ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, Tố Hữu được một nữ đồng chí là Chủ tịch Hội LHPN tỉnh giới thiệu cho người đồng chí của mình là Vũ Thị Thanh. Từ lời giới thiệu ấy, Tố Hữu đến với cô gái xứ Thanh, cũng là một Huyện ủy viên trẻ tuổi và rồi sau đó, họ nên vợ nên chồng, cùng đi với nhau suốt chặng đường cách mạng và đường đời sau này.
Bà Vũ Thị Thanh là nguyên Phó Trưởng ban Ban Tuyên huấn Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), bà qua đời năm 2012. Mối tình của hai người được khen ngợi là một mối tình đẹp, bà Thanh đã từng viết hồi ký về Tố Hữu mang tên Ký ức người ở lại.
Nói về Ký ức người ở lại, nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam ghi nhận: "Cuốn hồi ký không dài, chỉ dừng lại ở những sự kiện quan trọng nhất, nhưng cũng đủ để người đọc cảm nhận một cách xúc động và thấm thía về tình yêu cao đẹp, giàu lý tưởng và thủy chung của chị Vũ Thị Thanh và nhà thơ Tố Hữu. Sự gắn bó nhuần nhuyễn giữa tình yêu và sự nghiệp, chung và riêng, làm nên không gian trữ tình đằm thắm, tô đậm cuộc sống, nghị lực, phẩm giá của một gia đình cách mạng mẫu mực và qua đó, người ta được sống lại những sự kiện lịch sử và cuộc sống của đất nước trong những năm tháng không thể nào quên...".
Tác phẩm nổi bật
- Lượm (1949)
- Từ ấy (1946)
- Việt Bắc (1954)
- Gió lộng (1961)
- Ra trận (1962-1971)
- Máu và hoa (1977)
- Một tiếng đờn (1992)
- Ta với ta (1999)
- Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973)
- Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)