Khuyên người ăn ở
Trời cao đất dầy, Con tạo vần xoay. Ơn trời nhờ thánh, Sinh được hội này. Ai là chẳng nức lòng nức dạ, Ai chẳng mong nở mặt nở mày. Hậu giả hậu lai, ở hiền gặp lành, mới biết tre già măng mọc. Ác giả ác báo, ăn mặn khát nước, khác nào cây yếu gió lay
Nội dung bài thơ: Khuyên người ăn ở
Trời cao đất dầy,
Con tạo vần xoay.
Ơn trời nhờ thánh,
Sinh được hội này.
Ai là chẳng nức lòng nức dạ,
Ai chẳng mong nở mặt nở mày.
Hậu giả hậu lai, ở hiền gặp lành, mới biết tre già măng mọc.
Ác giả ác báo, ăn mặn khát nước, khác nào cây yếu gió lay.
Trách những người thịt bắp vai u, đường lui tới, lẽ thiệt hơn, ở chẳng trông sau trông trước;
Nào những kẻ mặt hoa da phấn, chí tang bồng, duyên hồ thỉ, đi cho biết đó biết đây.
Đương cơn bình địa ba đào, có chí làm nên quan, có gan làm nên giàu, sao chẳng khoe khôn cậy khéo;
Gặp lúc điên liên vận túng, có miệng thì phải cắp, có nắp thì phải đậy, cũng nên giả dại làm ngây.
Của trời mất một đền mười, xin chớ ăn chay nói dối;
Nam vô một bồ lấy bốn, thà rằng ăn mặn nói ngay.
Vắn cánh với chẳng đến trời, trí thiển tài ngu, vòng danh lợi bon chen sao xiết kể;
Ra tay gạo xay nên cám, văn hay vũ mạnh, buổi kinh luân vùng vẩy cũng ghê thay.
Bò của chú chú phải lo, con vua vua dấu, con chúa chúa yêu, tình ân ái chẳng nhầm chẳng lẫn;
Đèn nhà ai nhà ấy rạng, của anh anh mang, của nàng nàng xách, nợ phong trần này giả này vay.
Chị em ơi, lấy chồng cho đáng tấm chồng, cho bõ lúc nghiền văn sáp, lúc áp thư hương, hai chữ cương thường, sao cho xứng đáng?
Quân tệ nhỉ, lấy vợ chỉ biết mặt vợ, chẳng nhớ ai bể anh nhi, ai bồng xích tử, ba năm nuôi nứng, bao quản đắng cay.
Có cha có mẹ như đàn có dây, đạo mẹ đức cha, bể rộng trời cao khôn ví;
Thuận vợ thuận chồng, bể đông cũng cạn, đạo chồng nghĩa vợ, nguồn ân bể ái nào tầy.
Chị ngã đã có em nâng, máu chảy ruồi bâu, lá rách lá lành đùm bọc;
Cha sinh không tầy mẹ dưỡng, áo dày cơm nặng, công nuôi công nứng đêm ngày.
Một cây chẳng nên rừng, đông có mây, tây có sao, đông đúc anh em mới quí;
Mười voi không bát xáo, kẻ nói thánh, người nói tướng, chớ nghe miệng thế thêm rầy.
Trẻ chẳng tha, già chẳng thương, ở chẳng phòng xa, vuốt mặt không nể mũi.
Cha cũng kính, mẹ cũng vái, đi đâu mà thiệt, xẩy vai xuống cánh tay.
Mưa bao giờ mát bấy giờ, chẳng nghĩ lúc rét cắt ruột, lúc đói nhăn răng, may sống chẳng phòng khi cả dạ;
Gió chiếu nào che chiều ấy, để cho nó qua thì đói, nó khỏi thì loạn, thế nào cũng được bữa no say.
Báng đầu thằng chọc, chẳng nể lòng ông sư, cứng cổ cứng đầu, ai xá những phường ngu dại;
Vắng mặt thằng ngô, lúc có mặt ông sứ, lấp mày lấp mặt, chớ nghe người nói xưa nay.
Giặc bên ngô, cô bên chồng, liệu gió phất cờ, đường cư xử sao cho trọn vẹn;
Cháu bà nội, tội bà ngoại, vị cây dây quấn, lẽ phải chăng nào dám đổi thay.
Giàu đâu ba họ, khó đâu ba đời, đói cho sạch, rách cho thơm, cứ giữ công bình cho phải đạo;
Sống người một nết, chết người một tật, mẹ sinh con, giời sinh tính, há rằng số phận có ưa may.
Thiếu chi kẻ dở người hay, ai là người dạy bảo, ai đem đạo mở mang, có lẽ cha chung ai khóc;
Nhắn nhủ trai lành gái tốt, phải nên để tấc lòng, phải nên chôn khúc dạ, chớ hề mẹ hát khen hay.
Bài thơ Khuyên người ăn ở của tác giả Nhà thơ Khuyết danh Việt Nam, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Khuyết danh Việt Nam
Nghệ danh: Khuyết danh Việt Nam
Tên thật: Khuyết danh Việt Nam
Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Khuyết danh Việt Nam - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác
Tác giả Khuyết danh Việt Nam, Thơ Khuyết danh Việt Nam, Tập thơ cổ-cận đại
Trên quan dưới dân - Ngoài làng trong họ
Có tật giật mình - Đứt tay hay thuốc
Quách Tử Nghi lai triều thụ tội
Nghệ Tĩnh văn thân điếu Phan Đình Phùng đối liên
Thiếp kể từ lá thắm - Chàng ở dưới suối vàng
Tây Sơn trung nguyên tiết tế Đổng lý Ngô Văn Sở
Đề kiểu thu giang vẽ ở bộ chén
An Nam sứ nhân ứng Hồ Quảng tỉnh mệnh phú thi
Vua dụ Vương Tường gả cho chúa Thiền Vu
Nghìn năm văn vật đất Thăng Long (I)