Thu dạ thuật hoài
Đêm thu tĩnh chén quỳnh nhạt chuốc, Bóng Hằng Nga trông lọt trướng huỳnh; Bâng khuâng mình tưởng sự mình, Hỏi ai xa có biết tình chăng ai? Sông Tô Lịch khơi ngòi thi lễ, Cõi Thường Châu rạng vẻ cân đai; Nếp nhà võ giáp văn khôi, Tiếng thơm kể mấy mươ
Nội dung bài thơ: Thu dạ thuật hoài
Đêm thu tĩnh chén quỳnh nhạt chuốc,
Bóng Hằng Nga trông lọt trướng huỳnh;
Bâng khuâng mình tưởng sự mình,
Hỏi ai xa có biết tình chăng ai?
Sông Tô Lịch khơi ngòi thi lễ,
Cõi Thường Châu rạng vẻ cân đai;
Nếp nhà võ giáp văn khôi,
Tiếng thơm kể mấy mươi đời đến nay.
Dầu mặc khách vần xoay thế cục,
Hoài hỏi ai quấy đục quan hà;
Nước non vẫn đó chưa già,
Bút nghiên vậy giữ lối nhà ngày xưa.
Nhớ từ thuở ngây thơ chửa biết,
Trên song đường bắt biết vào khuôn;
Ngón tay luyện thuốc đã mòn,
Lá bồ, thẻ trúc vẫn còn hơi giây.
Lòng những sợ châu bay sông đục,
Thú vậy tìm đá học nghĩa kinh.
Long Biên một dải xanh xanh,
Cỏ cây đưa bước vân trình từ đây.
Vườn Độc Lạc hoa bay mùi nhớ,
Cầu Thăng Tiên bút giở ra lời;
Núi Nùng cách trở mấy mươi,
Thần hôn riêng để cho người tử kinh.
Hồ Kiếm thuỷ trời dành thú lạ,
Ao Liên đình sen cả mùi hương;
Nương mình được cửa đại phương,
Đêm thu chợt tỉnh tiếng chuông giấc nồng.
Câu nghĩa lý đề trong dạ tạc,
Thói phồn hoa những rác tai nghe;
Cười trăng cợt gió đi về,
Càng quen thuộc thói càng mê mẩn tình.
Cũng có lúc phẩm bình phong nguyệt,
Lại có khi điểm xuyết yên hà;
Đòi phen vẫy ngọn bút hoa,
Thử đem mấy mặt sơn hà vẽ chơi.
Khuôn tai mắt thợ trời đào chú,
Đường khôi khoa lối cũ trâm anh;
Quản chi lên thác xuống ghềnh,
Làm trai phải góp công danh với đời.
Vườn quỳnh uyển hoa cười mấy đoá,
Bẻ một cành cho thoả ba sinh;
Nào ngờ cửa Khổng sân Trình,
Khư khư mình buộc lấy mình biết sao.
Đành thế vậy ao nghiên ruộng chữ,
Cũng mặc dầu cơm sử áo kinh.
Xinh thay một cảnh mai đình,
Hiên tây dường cũng mắt xanh ít nhiều.
Người bén cảnh đèn khêu Hướng Tú,
Cảnh chiều người màn rủ Đổng Công;
Tưởng phường Dương Trấn, Mã Dung,
Ai ôi có biết anh hùng gặp cơn.
Câu khiển hứng hoa hờn kém vẻ,
Vận tiêu sầu liễu bẽ bàng xuân;
Cành mai mới điểm trắng ngần,
Đố ai rây được bụi trần tỉ ti.
Cơ vãng phục nhiều khi bĩ thái,
Chồi xuân huyên ngảnh lại mà kinh.
Than ôi! một khóm tử kinh,
Hai cành ấm lạnh chia rành làm đôi.
Trách con tạo trêu ngươi chi tá,
Chẳng khoan cho ân trả nghĩa đền,
Mối sầu ai bề cho nên,
Hồi chuông giục gió ngọn đèn khêu trăng.
Thôi dĩ vãng dẫu rằng khôn lại,
Này tương lai liệu phải đền bồi;
Anh hùng tỏ mặt trần ai,
Hoạ người chín suối ngậm cười được chăng.
Thơ Lý Bạch phải đằng nên cảo,
Phú Tương Như lại thảo và thiên;
Vẽ vời một cảnh điền viên,
So vào với cảnh Võng Xuyên kém nào.
Gió dương liễu hỏi chào buổi sớm,
Trăng ngô đồng ờ ỡm trước sân;
Xui người trên gác Lâm Xuân,
Đem dây cầm sắt lựa vần huyền ca.
Gắn phím nhạn sẽ hoà mấy khúc,
Nghe canh gà lại giục đòi phen;
Buồng riêng vẫn mặc sách đèn,
Mây hôm mưa sớm sợ ghen ít nhiều.
Xin phần tử hãy chiều độ nữa,
Để giang sơn trả nợ bút nghiên;
Buồm thưa kéo trục vân yên,
Thử xem phong vận Duy Tiên thế nào.
Trên sông Nhuệ hoa chào liễu hỏi,
Dưới rừng Sam oanh nói nhạn thưa;
Người ưa nên cảnh cũng ưa,
Sen mừng rỡ hạ, lan chờ đợi xuân,
Dong giá bút truyền thần Ban, Mã,
Cuốn từng mây đọ giá Tô, Âu;
Chi hồ dã giả và câu,
Cỏ hoa xem cũng ra mầu phải duyên.
Khách cầm kiếm vừa yên ổn chỗ,
Áng công danh khéo dỗ dành thôi.
Núi Sùng hàng nhạn loi thoi,
Nước non này để cho ai phầm đề,
Dòng Mã thuỷ thu về ngòi bút,
Cồn Long Sơn đề chút vi danh;
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Chúa xuân sao khéo bất tình như ai.
Chốn phần tử mỉa mai lắm nỗi,
Cửa Vũ Môn len lỏi nhiều phen;
Chửa cho trắng nợ sách đèn,
Theo đòi còn có con em sau này.
Mượn hỏi tá ai bày trò dối,
Kẻo xinh thay cũng hội phong vân;
Phụ phàng là khách hồng quân,
Thang mây để bước mấy lần kia thôi.
Bạn đài các ai ôi chờ mấy!
Kho gió trăng chơi lấy kẻo hoài;
Sông Lương là cảnh chiều ai,
Cả gan dám dỗ những người văn chương.
Cành cổ thụ treo gương ngọc kính,
Suối Tam Kỳ vẽ cảnh tiêu sơ;
Lối này tiễn biệt từ xưa,
Nào ngờ lẩn thẩn bây giờ lại đây.
Chiều lòng khách lại bày trò cũ,
Thay má tiên mà chủ thần hoa;
Huệ lan sực nức trước nhà,
Năm ba chậu cúc, một và bông mai.
Xuân mấy độ trêu người tuyết án,
Hoa bốn mùa là bạn tiêu sầu;
Có khi bảng lảng trời thâu,
Giở bàn Đế Thích, chen bầu Lưu Lang.
Lầu minh nguyệt hỏi phường Vương Xán,
Hội Lan Đình lìm bạn Hữu Quân;
Có khi êm ả chiều xuân,
Lựa lời Ma Hiệt, theo vần Thiếu Lăng.
Khách Bành Trạch vẫn rằng đón rước,
Người Đào Nguyên cũng ước một hai;
Hơi may chợt động bên tai,
Thuần lô sực nhớ đến mùi sông Tô.
Nào phải khách giang hồ lỡ bước,
Bởi đâu ra non nước quê người;
Hỏi trăng trăng chẳng nói cười,
Trông trăng trăng lại trông người lửng lơ.
Làng tang tử vẫn chờ người cũ,
Khóm liễu bồ khéo rủ năm xuân;
Bấy nay chút nghĩa Châu Trần,
Bỗng đem giử ngọn mây Tần xa xa.
Thơ hồng diệp sao mà cách trở,
Đường thanh vân ai nỡ ngăn rào;
Lửa sầu càng dập càng cao,
Càng tơ tưởng nỗi, càng ngao ngán nhường.
Tên đã góp vào phường khoa mục,
Áo nào hoen trong cuộc phong trần;
Cho rằng vướng chút tơ Tần,
Mà tay tạo hoá gỡ dần cũng ra.
Nơi lữ trướng chan hoà lộc nước,
Bóng thiềm quang in trước thư đường;
Biết bao là thú văn chương,
Nghiên càng gợn sóng, bút càng tuôn mây.
Đem sơn thuỷ vào tay xếp đặt,
Để hoá công tỏ mặt non già.
Bài thơ Thu dạ thuật hoài của tác giả Nhà thơ Khuyết danh Việt Nam, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Khuyết danh Việt Nam
Nghệ danh: Khuyết danh Việt Nam
Tên thật: Khuyết danh Việt Nam
Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Khuyết danh Việt Nam - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác
Tác giả Khuyết danh Việt Nam, Thơ Khuyết danh Việt Nam, Tập thơ cổ-cận đại
Trên quan dưới dân - Ngoài làng trong họ
Có tật giật mình - Đứt tay hay thuốc
Quách Tử Nghi lai triều thụ tội
Nghệ Tĩnh văn thân điếu Phan Đình Phùng đối liên
Thiếp kể từ lá thắm - Chàng ở dưới suối vàng
Tây Sơn trung nguyên tiết tế Đổng lý Ngô Văn Sở
Đề kiểu thu giang vẽ ở bộ chén
An Nam sứ nhân ứng Hồ Quảng tỉnh mệnh phú thi
Vua dụ Vương Tường gả cho chúa Thiền Vu
Nghìn năm văn vật đất Thăng Long (I)