Người mẹ từ hoà
Ngày xưa, ông Lê Kỳ Di, Triều Ba-tư-nặc là bề tôi trung. Có bảy trai quý nối dòng, Sáu anh sớm đã đào hồng đẹp đôi. Còn em thứ bảy là người Uyên thâm lý đạo tột vời tài hoa. Lão quan nghĩ tuổi đã già, Muốn cho con cái thành gia đủ đầy. Nhưng tìm dâ
Nội dung bài thơ: Người mẹ từ hoà
Ngày xưa, ông Lê Kỳ Di,
Triều Ba-tư-nặc là bề tôi trung.
Có bảy trai quý nối dòng,
Sáu anh sớm đã đào hồng đẹp đôi.
Còn em thứ bảy là người
Uyên thâm lý đạo tột vời tài hoa.
Lão quan nghĩ tuổi đã già,
Muốn cho con cái thành gia đủ đầy.
Nhưng tìm dâu út khó thay,
Dẫu trang quốc sắc đất này thiếu chi.
Công dung ngôn hạnh ai bì,
Sắc hương vừa độ dậy thì đào tơ.
Nhưng chàng Bảy vẫn chối từ,
Lòng trai còn mãi trầm tư diệu vời.
Ông khuyên: “cha đã già rồi,
Xuân thu còn ít tuổi trời lui mau.
8.300. Trước khi nhắm mắt qua cầu,
Muốn nhìn con trẻ có nhau xum vầy.
Mối mai nhắn đó nhờ đây,
Biết bao vóc nguyệt dáng mây khoe đào.
Lại dòng phúc hậu thanh cao,
Lẽ đâu không một nơi nào đáng chăng?
Chỉ vui kinh sách phòng văn,
Khiến cha trông đợi băn khoăn đã nhiều!”
Chàng thưa “đâu dám tự kiêu
Khi song thân đã thương chìu tìm nơi
Xứng danh kiều diễm trang đài,
Song con nghĩ: chỉ một thời rồi qua
Những hương sắc với vinh hoa,
Nén lòng đợi chốn hiền hòa đức cao.
Đồng tâm, sẽ kết tơ đào,
Vui lòng cha mẹ, duyên trao thuận hòa.
Kiếp người chẳng lẽ sinh ra,
Giam trong giả tướng một nhà trầm luân.”
Ông khen: “ý đẹp muôn phần,
Nếu được như vậy đâu cần thêm chi.
Bạn cha có một vị kia
Quen nhiều biết rộng, nhờ gì cũng xong.”
Quả nhiên khi nghe chuyện ông,
Thân tình, lão hữu vui lòng ra đi.
Gót hiền tìm đến thôn kia,
Tình cờ gặp nhóm xuân thì dạo vui.
Một nàng, trong nhóm mảnh mai,
Mặt tươi hoa sớm, tuổi ngoài nửa trăng.
Các cô khi tới suối rừng,
Tự nhiên đều tháo hài cầm trên tay.
Riêng nàng đó để nguyên hài,
Ung dung đi xuống, dáng người dễ thương.
Lão ông thấy vẻ khác thường,
Lưu tâm xem cách thức nàng ra sao.
Các cô đều xắn quần cao,
Riêng nàng vẫn thả ống đào bước qua.
Mấy cô ồn ã nô đùa,
Riêng nàng tươi tỉnh gởi thưa phải lời.
Bạn trèo cây bẻ cành chơi,
Riêng nàng dạo ngắm cỏ tươi lá mềm.
Sau hồi giỡn nghịch huyên thuyên,
Các cô vặt hái cả nghìn trái cây.
Duy nàng chẳng đụng mảy may
Đến khi cùng bạn dắt tay trở về.
Lão ông giả bộ người quê,
Ho khan mệt nhọc, ngồi kề lối qua.
Mấy cô kia mải vua đùa,
Riêng nàng dừng bước, xót xa hỏi người:
“Cụ từ đâu tới đây chơi?”
Lão rằng “vốn ngụ một nơi xa thành.
Còn cô, nhà hẳn gần quanh,
Cho ta hỏi chút thân tình, có nên?”
Nàng thưa “xin cụ tự nhiên,
Điều con biết sẽ trình lên với người.”
Lão ông rằng “thực mừng vui,
Thấy con dung hạnh khác đời lắm thay.
Đã chơi cùng chúng bạn đây,
Mà khi xăn áo, cởi giày lội sang.
Lại khi đập trái cây rừng,
Sao con riêng biệt không cùng đùa theo?”
Thưa: “dù việc chẳng bao nhiêu,
Nhưng lão trượng hỏi, con đều phải thưa.
Áo quần dù vải hay tơ,
Cũng như giày dép, cốt cho người dùng.
Phải tùy lựa trước là xong,
Đã che thân thể nên không tiếc gì.
Còn như cây trái đồi kia,
Dành cho chim chóc đi về có ăn.”
Lão khen “con có thiện căn,
Nên ta mong được đến thăm lệnh đường.”
Nàng vâng lời, dẫn vào làng,
Đến nhà vườn rộng, dưới hàng cây xanh.
Chủ nhân cốt cách lịch thanh,
Hỏi ra mới biết là tình đồng hương.
Vốn dòng quyền quý giàu sang,
Phải khi tai họa tìm đường lánh đây.
Luống khoai, ao cá, vườn cây,
Đất lành chim đậu, tháng ngày thong dong.
Thêm gian nhà mát hướng đông,
Mở trường học nhỏ, dân vùng mừng vui.
Gửi con em tới theo đòi,
Gió thơm đồng nội truyền lời giảng văn.
Sớm thầy ngắm núi hoa sương,
Chiều ôn thế sự ngẫm thương nỗi đời.
Khi cùng dân giã, lưới chài,
Miếng trầu điếu thuốc một vài câu thăm.
Khi xem dệt cửi, ươm tằm,
Khuyên con cháu giữ tính chăm nết hiền.
Được lòng yêu kính suốt miền,
Việc làng việc nước, cậy phiền lo toan.
Làm dân cho đến làm quan,
Góp tay bồi đắp giang san cũng là.
Ngã nhân bởi tự lòng ta,
Xá gì ảo ảnh sương sa cõi người.
Miễn sao thiên hạ cùng vui.
Thuận hòa một gốc đạo trời nhân duyên.
Lão ông mừng gặp người hiền,
Đức cao tâm rộng địa tiên chốn này.
Hàn huyên trà rượu đôi ngày,
Mới đem chuyện bạn ngõ bày xem sao.
Diệu Hoa hiền đức má đào,
8.400. Xứng cùng chàng Bảy trí cao lòng từ.
Thuận duyên, người gởi, người thưa,
Sang mùa hoàng cúc, một nhà phượng loan.
Đôi bên rể quý dâu hiền,
Gia đình hạnh phúc dưới trên thuận hòa.
Khiêm nhường đối đãi gần xa,
Trong tình chồng vợ ngoài ra bạn hiền.
Diệu Hoa quản trị điền viên,
Lại cùng chàng lúc bút nghiên văn bài.
Tiếng ngoan đồn khắp trong ngoài,
Người trên kẻ dưới nức lời mến thương.
Lại hay cứu vớt tai ương,
Biết bao kẻ khó được nàng giúp cho.
Thấy ai có chút lòng từ
Là nàng khuyến khích coi như thân tình.
Yêu thương khắp loại chúng sinh,
Giữa phồn hoa rắc nhân tình nơi nơi.
Bảy lần sanh, bảy con trai
Đều là cốt cách trí tài vô song.
Tính cha nết mẹ theo dòng,
Kết giao hiền sĩ anh hùng bốn phương.
Thị thành cho đến thâm sơn,
Đều từng in gót bảy chàng dạo qua.
Bởi lòng cầu tiến thiết tha,
Nghe danh ẩn sĩ đâu là tìm ngay.
Khi mong thêm một bạn hay,
Khi cần được một bực thầy bảo ban.
Sự tình khiến một thượng quan,
Vốn tay xiểm nịnh quyền gian bực mình.
Phần ghen lừng lẫy tài danh,
Phần nuôi giận cũ nên sanh oán thù.
Lòng thầm hằng nghĩ mưu mô,
Đặt lời sàm tấu lên vua ngày ngày.
Phải khi dân gặp thiên tai,
Người đau kẻ chết trong ngoài xôn xao.
Anh em lo giúp đồng bào,
Nịnh quan thừa dịp đặt bao bẫy ngầm.
Rồi tâu là họ mưu toan
Xúi dân nổi loạn, tính đường cướp ngôi.
Cớ gian trình sẵn đây rồi,
Vua tin truyền giữ bảy người khảo tra.
Mưu thù quyết hại không tha,
Cho tiền quản ngục bắt tra cực hình.
Được vàng lại sẵn máu tanh,
Mấy tên trâu ngựa hết mình làm theo.
Ngày đêm khảo đã đủ điều,
Đòi ăn đút lót thật nhiều ngọc châu.
Nhưng gia đình có tiền đâu,
Của riêng đã giúp đồng bào tai ương.
Thế là nát thịt tan xương,
8.450. Anh em chết tại ngục đường lặng im.
Nhưng dù che giấu mọi tin,
Cũng không mấy chốc, dân liền xôn xao.
Gái trai già trẻ khóc gào,
Bên thành kéo đến xin vào kêu oan.
Mặc cho giáo chặn binh giàn,
Quyết lòng tố cáo nịnh quan hại người.
Bây giờ mới rõ mười mươi,
Nhà vua sửng sốt lại mời trăm quan.
Nửa đêm tới họp triều đàng,
Sai vệ binh bắt kẻ gian hạ tù.
Rồi cho quân lính truyền loa
Loan tin dân biết để mà trấn an.
Nhưng dân căm uất vô vàn,
Kêu gào xin điệu kẻ gian ra ngoài
Để dân sẽ tự phanh thây,
Ăn gan, uống máu họa may vui lòng.
Nói rồi toàn thể đám đông
Chẳng nề gươm giáo quyết xông vào thành.
Chí dân làm cả triều đình,
Dẫu đầy quân tướng cũng kinh hoảng người.
Thế cùng sắp máu xương rơi,
Trên thành chợt thấy một người vội ra.
Chính là hiền mẫu Diệu Hoa,
Thiện danh đã khiến nhà nhà kính yêu.
Xuân thu tuổi dẫu qua nhiều,
Nghi dung còn vẻ diễm kiều chưa phai.
Vẫy tay, từ tốn cất lời:
“Đồng bào xin hãy nghe đôi câu này.
Chính tôi sầu thảm nhất đây,
Sinh con đâu biết có ngày tang con!
Hận thù hẳn chất như non
Nếu không nhớ lại: khi còn bình sinh
Các con tôi hướng việc lành,
Nguyện đem thân giúp chúng sanh thuận hòa.
Lẽ đâu chết lại thành ra
Mối cừu hận để nhà nhà máu rơi.
Các người đã thương con tôi,
Thì xin ghi nhớ những lời lẽ xưa.
Oán nào giải oán bao giờ,
Máu nào gội được máu thù cho tan.
Hãy về thể hiện tình thương,
Là cho hồn trẻ suối vàng được vui.”
Dứt câu, sông núi ngậm ngùi,
Từ âm khiến cả lòng người dịu theo.
Lệ tuôn thương nhớ còn nhiều,
Nhưng quay về với những điều từ bi.
Rồi hiền mẫu đến rừng kia
Chắp tay kính đức Đại bi trên tòa.
Phật rằng “tín nữ Diệu Hoa,
Dù cho muôn loại một nhà máu xương.
Cùng trong ải nghiệp vô thường,
Ân ân oán oán trăm đường vào ra.
Chấp người nên mới có ta,
Có mình nên mới có nhà trầm luân.
Giờ con muốn rõ quả nhân,
Thì ta cũng kể một lần cho nghe:
Kiếp xưa có bảy người kia
Không nhà, thất thểu không nghề sinh nhai.
Chúng hay lui tới thôn ngoài,
Nhà bà lão bán hoa lài từ xưa.
Kiếm ăn dù đói hay no,
Cũng dành hoa để dâng chùa sớm hôm.
Nghe lành, ngắm Phật làm gương,
Đài sen như thấy tỏa hương thơm đời.
Một hôm bà lão đi rồi,
Bọn kia dắt trộm trâu người đem ăn.
Bà về gặp bọn sát sanh
Buộc trâu làm thịt thôi đành tính sao.
Biết rằng ác báo kiếp sau,
Nhân nhân quả quả nối nhau chẳng rời.
Nguyện rằng sau có ở đời
Thì xin độ được bảy người hiền lương.
Trần gian ảo hóa vô thường,
Oán xưa chồng chất tìm đường báo nhau.
Quan triều, chính kiếp xưa trâu
Bị đem giết thịt hẹn sau oán đền.
Còn bà lão đã phát nguyền,
Là Diệu Hoa đó, con hiền bảy trai.
Ác căn còn cũng nhớ người,
Duyên lành hóa cải đổi dời hư không.
Ngộ mê cũng tại nơi lòng,
Quả nay hẳn rõ nhân trồng kiếp xưa.
Dù nơi động thẳm non mờ,
Tránh sao khỏi quả đến giờ báo sinh.
Cõi đời nhục nhục vinh vinh,
Nổi trôi bọt nước bồng bềnh sông mê.
Chỉ còn nguyện đến bờ kia,
Yêu thương vô hạn đi về thênh thang.
Tử sinh như cát sông vàng,
Mười phương cõi giới con đàng vào ra.
Giả hình như bóng chim qua,
Như sông biển réo Ta-bà bọt sôi.
Xá gì một gợn mây trôi,
Mà chân vướng mãi luân hồi trầm luân.
Sông thanh tịnh xả bụi trần,
Đạp muôn quách mộng một lần cho tan.
Ngẫm xem suốt cõi trần hoàn,
Khác gì ảo ảnh mênh mang giữa trời.
Niệm sinh như lớp mây dời,
8.550. Một, hai: vọng chấp lòng người mà ra.
Hợp, xung cũng một lòng ta,
Mười phương pháp giới đều là thể tâm.”
Bấy giờ giữa chốn tuyền lâm,
Vua quan cũng đã kéo dần tới nghe.
Chắp tay im lặng dưới hè,
Hoa bay thấp thoáng, mây che chập chùng.
Pháp hiền như vẳng hồng chung,
Xóa tan sầu hận vô cùng vô biên.
Lòng người như đóa bạch liên
Giữa nơi mê vọng ưu phiền nở ra.
Vua, quan tỉnh thức trần sa,
Noi gương tín nữ Diệu Hoa đại từ.
Như đêm tỏ hiện chân như,
Như bầy hạc giữa không hư tìm về.
Y nương dưới cội Bồ-đề,
Cây non cỏ nội bốn bề xanh tươi.
Như xuân nhuần thấm đất trời,
Như triêu dương trải nắng tươi ngọn ngành.
Như chim nhạn vượt non thành,
Kiếm hoa dương trải áo xanh dưới cầu.
Thấm câu pháp vị nhiệm mầu,
Như đêm thu vẳng chuông đâu trầm từ.
Như dùi mõ vọng không hư,
Khiến người dứt nỗi ưu tư tục trần.
Khiến cây cỏ dục lòng xuân,
Khiến mây nhớ núi lại vần vũ bay.
Diệu Hoa đứng dậy chắp tay,
Cành bông vương giữa tóc mây đôi bờ.
Gió trời thoang thoảng hương đưa,
Nét môi đào thẫm thốt thưa nhẹ nhàng
Rằng con tỉnh giấc mơ vàng,
Đức này hồi hướng khắp hàng nhân thiên.
Nguyện cho mười cõi dưới trên
Phúc duyên tỉnh giấc sầu miên hận thù.
Quy nương chính đạo tín tu
Ngọn đèn trí huệ nghìn thu dõi hiền.
Trên bờ cỏ úp tay tiên,
Như lan bạch ngọc đặt lên gấm trời.
Lễ xong lui đứng bên Người,
Nhà vua cũng lại phát lời thệ cao.
Quần thần kẻ trước người sau
Cũng xin thệ nguyện lễ đầu thiết tha.
Một bầy chim tự phương xa
Bay về ríu rít trải hoa cúng dường.
Thinh không hiện áng mây hường,
Kết thành quạt báu tỏa hương diệu kỳ.
Cúng dường đại lễ quy y,
Gió thơm thổi sạch mê ly bụi trần.
Người người tuần tự lui chân,
8.600. Đức vua cùng với quan quân trẩy về.
Lúa xanh ngan ngát đồng quê,
Tiếng ai gọi nghé trên đê vọng đài.
Bài thơ Người mẹ từ hoà của tác giả Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long
Nghệ danh: Phạm Thiên Thư
Tên thật: Phạm Kim Long
Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Phạm Thiên Thư - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác