Người mẹ từ hoà

Thơ   •   Thứ hai, 08/11/2021, 15:38 PM

Ngày xưa, ông Lê Kỳ Di, Triều Ba-tư-nặc là bề tôi trung. Có bảy trai quý nối dòng, Sáu anh sớm đã đào hồng đẹp đôi. Còn em thứ bảy là người Uyên thâm lý đạo tột vời tài hoa. Lão quan nghĩ tuổi đã già, Muốn cho con cái thành gia đủ đầy. Nhưng tìm dâ

Nội dung bài thơ: Người mẹ từ hoà

Ngày xưa, ông Lê Kỳ Di,

Triều Ba-tư-nặc là bề tôi trung.

Có bảy trai quý nối dòng,

Sáu anh sớm đã đào hồng đẹp đôi.

Còn em thứ bảy là người

Uyên thâm lý đạo tột vời tài hoa.

Lão quan nghĩ tuổi đã già,

Muốn cho con cái thành gia đủ đầy.

Nhưng tìm dâu út khó thay,

Dẫu trang quốc sắc đất này thiếu chi.

Công dung ngôn hạnh ai bì,

Sắc hương vừa độ dậy thì đào tơ.

Nhưng chàng Bảy vẫn chối từ,

Lòng trai còn mãi trầm tư diệu vời.

Ông khuyên: “cha đã già rồi,

Xuân thu còn ít tuổi trời lui mau.

8.300.  Trước khi nhắm mắt qua cầu,

Muốn nhìn con trẻ có nhau xum vầy.

Mối mai nhắn đó nhờ đây,

Biết bao vóc nguyệt dáng mây khoe đào.

Lại dòng phúc hậu thanh cao,

Lẽ đâu không một nơi nào đáng chăng?

Chỉ vui kinh sách phòng văn,

Khiến cha trông đợi băn khoăn đã nhiều!”

Chàng thưa “đâu dám tự kiêu

Khi song thân đã thương chìu tìm nơi

Xứng danh kiều diễm trang đài,

Song con nghĩ: chỉ một thời rồi qua

Những hương sắc với vinh hoa,

Nén lòng đợi chốn hiền hòa đức cao.

Đồng tâm, sẽ kết tơ đào,

Vui lòng cha mẹ, duyên trao thuận hòa.

Kiếp người chẳng lẽ sinh ra,

Giam trong giả tướng một nhà trầm luân.”

Ông khen: “ý đẹp muôn phần,

Nếu được như vậy đâu cần thêm chi.

Bạn cha có một vị kia

Quen nhiều biết rộng, nhờ gì cũng xong.”

Quả nhiên khi nghe chuyện ông,

Thân tình, lão hữu vui lòng ra đi.

Gót hiền tìm đến thôn kia,

Tình cờ gặp nhóm xuân thì dạo vui.

Một nàng, trong nhóm mảnh mai,

Mặt tươi hoa sớm, tuổi ngoài nửa trăng.

Các cô khi tới suối rừng,

Tự nhiên đều tháo hài cầm trên tay.

Riêng nàng đó để nguyên hài,

Ung dung đi xuống, dáng người dễ thương.

Lão ông thấy vẻ khác thường,

Lưu tâm xem cách thức nàng ra sao.

Các cô đều xắn quần cao,

Riêng nàng vẫn thả ống đào bước qua.

Mấy cô ồn ã nô đùa,

Riêng nàng tươi tỉnh gởi thưa phải lời.

Bạn trèo cây bẻ cành chơi,

Riêng nàng dạo ngắm cỏ tươi lá mềm.

Sau hồi giỡn nghịch huyên thuyên,

Các cô vặt hái cả nghìn trái cây.

Duy nàng chẳng đụng mảy may

Đến khi cùng bạn dắt tay trở về.

Lão ông giả bộ người quê,

Ho khan mệt nhọc, ngồi kề lối qua.

Mấy cô kia mải vua đùa,

Riêng nàng dừng bước, xót xa hỏi người:

“Cụ từ đâu tới đây chơi?”

Lão rằng “vốn ngụ một nơi xa thành.

Còn cô, nhà hẳn gần quanh,

Cho ta hỏi chút thân tình, có nên?”

Nàng thưa “xin cụ tự nhiên,

Điều con biết sẽ trình lên với người.”

Lão ông rằng “thực mừng vui,

Thấy con dung hạnh khác đời lắm thay.

Đã chơi cùng chúng bạn đây,

Mà khi xăn áo, cởi giày lội sang.

Lại khi đập trái cây rừng,

Sao con riêng biệt không cùng đùa theo?”

Thưa: “dù việc chẳng bao nhiêu,

Nhưng lão trượng hỏi, con đều phải thưa.

Áo quần dù vải hay tơ,

Cũng như giày dép, cốt cho người dùng.

Phải tùy lựa trước là xong,

Đã che thân thể nên không tiếc gì.

Còn như cây trái đồi kia,

Dành cho chim chóc đi về có ăn.”

Lão khen “con có thiện căn,

Nên ta mong được đến thăm lệnh đường.”

Nàng vâng lời, dẫn vào làng,

Đến nhà vườn rộng, dưới hàng cây xanh.

Chủ nhân cốt cách lịch thanh,

Hỏi ra mới biết là tình đồng hương.

Vốn dòng quyền quý giàu sang,

Phải khi tai họa tìm đường lánh đây.

Luống khoai, ao cá, vườn cây,

Đất lành chim đậu, tháng ngày thong dong.

Thêm gian nhà mát hướng đông,

Mở trường học nhỏ, dân vùng mừng vui.

Gửi con em tới theo đòi,

Gió thơm đồng nội truyền lời giảng văn.

Sớm thầy ngắm núi hoa sương,

Chiều ôn thế sự ngẫm thương nỗi đời.

Khi cùng dân giã, lưới chài,

Miếng trầu điếu thuốc một vài câu thăm.

Khi xem dệt cửi, ươm tằm,

Khuyên con cháu giữ tính chăm nết hiền.

Được lòng yêu kính suốt miền,

Việc làng việc nước, cậy phiền lo toan.

Làm dân cho đến làm quan,

Góp tay bồi đắp giang san cũng là.

Ngã nhân bởi tự lòng ta,

Xá gì ảo ảnh sương sa cõi người.

Miễn sao thiên hạ cùng vui.

Thuận hòa một gốc đạo trời nhân duyên.

Lão ông mừng gặp người hiền,

Đức cao tâm rộng địa tiên chốn này.

Hàn huyên trà rượu đôi ngày,

Mới đem chuyện bạn ngõ bày xem sao.

Diệu Hoa hiền đức má đào,

8.400.  Xứng cùng chàng Bảy trí cao lòng từ.

Thuận duyên, người gởi, người thưa,

Sang mùa hoàng cúc, một nhà phượng loan.

Đôi bên rể quý dâu hiền,

Gia đình hạnh phúc dưới trên thuận hòa.

Khiêm nhường đối đãi gần xa,

Trong tình chồng vợ ngoài ra bạn hiền.

Diệu Hoa quản trị điền viên,

Lại cùng chàng lúc bút nghiên văn bài.

Tiếng ngoan đồn khắp trong ngoài,

Người trên kẻ dưới nức lời mến thương.

Lại hay cứu vớt tai ương,

Biết bao kẻ khó được nàng giúp cho.

Thấy ai có chút lòng từ

Là nàng khuyến khích coi như thân tình.

Yêu thương khắp loại chúng sinh,

Giữa phồn hoa rắc nhân tình nơi nơi.

Bảy lần sanh, bảy con trai

Đều là cốt cách trí tài vô song.

Tính cha nết mẹ theo dòng,

Kết giao hiền sĩ anh hùng bốn phương.

Thị thành cho đến thâm sơn,

Đều từng in gót bảy chàng dạo qua.

Bởi lòng cầu tiến thiết tha,

Nghe danh ẩn sĩ đâu là tìm ngay.

Khi mong thêm một bạn hay,

Khi cần được một bực thầy bảo ban.

Sự tình khiến một thượng quan,

Vốn tay xiểm nịnh quyền gian bực mình.

Phần ghen lừng lẫy tài danh,

Phần nuôi giận cũ nên sanh oán thù.

Lòng thầm hằng nghĩ mưu mô,

Đặt lời sàm tấu lên vua ngày ngày.

Phải khi dân gặp thiên tai,

Người đau kẻ chết trong ngoài xôn xao.

Anh em lo giúp đồng bào,

Nịnh quan thừa dịp đặt bao bẫy ngầm.

Rồi tâu là họ mưu toan

Xúi dân nổi loạn, tính đường cướp ngôi.

Cớ gian trình sẵn đây rồi,

Vua tin truyền giữ bảy người khảo tra.

Mưu thù quyết hại không tha,

Cho tiền quản ngục bắt tra cực hình.

Được vàng lại sẵn máu tanh,

Mấy tên trâu ngựa hết mình làm theo.

Ngày đêm khảo đã đủ điều,

Đòi ăn đút lót thật nhiều ngọc châu.

Nhưng gia đình có tiền đâu,

Của riêng đã giúp đồng bào tai ương.

Thế là nát thịt tan xương,

8.450.  Anh em chết tại ngục đường lặng im.

Nhưng dù che giấu mọi tin,

Cũng không mấy chốc, dân liền xôn xao.

Gái trai già trẻ khóc gào,

Bên thành kéo đến xin vào kêu oan.

Mặc cho giáo chặn binh giàn,

Quyết lòng tố cáo nịnh quan hại người.

Bây giờ mới rõ mười mươi,

Nhà vua sửng sốt lại mời trăm quan.

Nửa đêm tới họp triều đàng,

Sai vệ binh bắt kẻ gian hạ tù.

Rồi cho quân lính truyền loa

Loan tin dân biết để mà trấn an.

Nhưng dân căm uất vô vàn,

Kêu gào xin điệu kẻ gian ra ngoài

Để dân sẽ tự phanh thây,

Ăn gan, uống máu họa may vui lòng.

Nói rồi toàn thể đám đông

Chẳng nề gươm giáo quyết xông vào thành.

Chí dân làm cả triều đình,

Dẫu đầy quân tướng cũng kinh hoảng người.

Thế cùng sắp máu xương rơi,

Trên thành chợt thấy một người vội ra.

Chính là hiền mẫu Diệu Hoa,

Thiện danh đã khiến nhà nhà kính yêu.

Xuân thu tuổi dẫu qua nhiều,

Nghi dung còn vẻ diễm kiều chưa phai.

Vẫy tay, từ tốn cất lời:

“Đồng bào xin hãy nghe đôi câu này.

Chính tôi sầu thảm nhất đây,

Sinh con đâu biết có ngày tang con!

Hận thù hẳn chất như non

Nếu không nhớ lại: khi còn bình sinh

Các con tôi hướng việc lành,

Nguyện đem thân giúp chúng sanh thuận hòa.

Lẽ đâu chết lại thành ra

Mối cừu hận để nhà nhà máu rơi.

Các người đã thương con tôi,

Thì xin ghi nhớ những lời lẽ xưa.

Oán nào giải oán bao giờ,

Máu nào gội được máu thù cho tan.

Hãy về thể hiện tình thương,

Là cho hồn trẻ suối vàng được vui.”

Dứt câu, sông núi ngậm ngùi,

Từ âm khiến cả lòng người dịu theo.

Lệ tuôn thương nhớ còn nhiều,

Nhưng quay về với những điều từ bi.

Rồi hiền mẫu đến rừng kia

Chắp tay kính đức Đại bi trên tòa.

Phật rằng “tín nữ Diệu Hoa,

Dù cho muôn loại một nhà máu xương.

Cùng trong ải nghiệp vô thường,

Ân ân oán oán trăm đường vào ra.

Chấp người nên mới có ta,

Có mình nên mới có nhà trầm luân.

Giờ con muốn rõ quả nhân,

Thì ta cũng kể một lần cho nghe:

Kiếp xưa có bảy người kia

Không nhà, thất thểu không nghề sinh nhai.

Chúng hay lui tới thôn ngoài,

Nhà bà lão bán hoa lài từ xưa.

Kiếm ăn dù đói hay no,

Cũng dành hoa để dâng chùa sớm hôm.

Nghe lành, ngắm Phật làm gương,

Đài sen như thấy tỏa hương thơm đời.

Một hôm bà lão đi rồi,

Bọn kia dắt trộm trâu người đem ăn.

Bà về gặp bọn sát sanh

Buộc trâu làm thịt thôi đành tính sao.

Biết rằng ác báo kiếp sau,

Nhân nhân quả quả nối nhau chẳng rời.

Nguyện rằng sau có ở đời

Thì xin độ được bảy người hiền lương.

Trần gian ảo hóa vô thường,

Oán xưa chồng chất tìm đường báo nhau.

Quan triều, chính kiếp xưa trâu

Bị đem giết thịt hẹn sau oán đền.

Còn bà lão đã phát nguyền,

Là Diệu Hoa đó, con hiền bảy trai.

Ác căn còn cũng nhớ người,

Duyên lành hóa cải đổi dời hư không.

Ngộ mê cũng tại nơi lòng,

Quả nay hẳn rõ nhân trồng kiếp xưa.

Dù nơi động thẳm non mờ,

Tránh sao khỏi quả đến giờ báo sinh.

Cõi đời nhục nhục vinh vinh,

Nổi trôi bọt nước bồng bềnh sông mê.

Chỉ còn nguyện đến bờ kia,

Yêu thương vô hạn đi về thênh thang.

Tử sinh như cát sông vàng,

Mười phương cõi giới con đàng vào ra.

Giả hình như bóng chim qua,

Như sông biển réo Ta-bà bọt sôi.

Xá gì một gợn mây trôi,

Mà chân vướng mãi luân hồi trầm luân.

Sông thanh tịnh xả bụi trần,

Đạp muôn quách mộng một lần cho tan.

Ngẫm xem suốt cõi trần hoàn,

Khác gì ảo ảnh mênh mang giữa trời.

Niệm sinh như lớp mây dời,

8.550.  Một, hai: vọng chấp lòng người mà ra.

Hợp, xung cũng một lòng ta,

Mười phương pháp giới đều là thể tâm.”

Bấy giờ giữa chốn tuyền lâm,

Vua quan cũng đã kéo dần tới nghe.

Chắp tay im lặng dưới hè,

Hoa bay thấp thoáng, mây che chập chùng.

Pháp hiền như vẳng hồng chung,

Xóa tan sầu hận vô cùng vô biên.

Lòng người như đóa bạch liên

Giữa nơi mê vọng ưu phiền nở ra.

Vua, quan tỉnh thức trần sa,

Noi gương tín nữ Diệu Hoa đại từ.

Như đêm tỏ hiện chân như,

Như bầy hạc giữa không hư tìm về.

Y nương dưới cội Bồ-đề,

Cây non cỏ nội bốn bề xanh tươi.

Như xuân nhuần thấm đất trời,

Như triêu dương trải nắng tươi ngọn ngành.

Như chim nhạn vượt non thành,

Kiếm hoa dương trải áo xanh dưới cầu.

Thấm câu pháp vị nhiệm mầu,

Như đêm thu vẳng chuông đâu trầm từ.

Như dùi mõ vọng không hư,

Khiến người dứt nỗi ưu tư tục trần.

Khiến cây cỏ dục lòng xuân,

Khiến mây nhớ núi lại vần vũ bay.

Diệu Hoa đứng dậy chắp tay,

Cành bông vương giữa tóc mây đôi bờ.

Gió trời thoang thoảng hương đưa,

Nét môi đào thẫm thốt thưa nhẹ nhàng

Rằng con tỉnh giấc mơ vàng,

Đức này hồi hướng khắp hàng nhân thiên.

Nguyện cho mười cõi dưới trên

Phúc duyên tỉnh giấc sầu miên hận thù.

Quy nương chính đạo tín tu

Ngọn đèn trí huệ nghìn thu dõi hiền.

Trên bờ cỏ úp tay tiên,

Như lan bạch ngọc đặt lên gấm trời.

Lễ xong lui đứng bên Người,

Nhà vua cũng lại phát lời thệ cao.

Quần thần kẻ trước người sau

Cũng xin thệ nguyện lễ đầu thiết tha.

Một bầy chim tự phương xa

Bay về ríu rít trải hoa cúng dường.

Thinh không hiện áng mây hường,

Kết thành quạt báu tỏa hương diệu kỳ.

Cúng dường đại lễ quy y,

Gió thơm thổi sạch mê ly bụi trần.

Người người tuần tự lui chân,

8.600.  Đức vua cùng với quan quân trẩy về.

Lúa xanh ngan ngát đồng quê,

Tiếng ai gọi nghé trên đê vọng đài.


Bài thơ Người mẹ từ hoà của tác giả Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.

Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long

Nghệ danh: Phạm Thiên Thư

Tên thật: Phạm Kim Long

Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Phạm Thiên Thư - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác

icon Phạm Thiên Thư, Nhà thơ Phạm Thiên Thư, Thơ Phạm Thiên Thư, Tập thơ Hội Hoa Đàm

Tổng hợp

Cùng tập thơ: Hội hoa đàm (1971)

Xuống biến tìm Kinh - phần 1

Thơ   •   08.11.2021
Một hôm đỉnh núi ùn hơi, Mây trên Linh Thứu như trời rắc hoa. Lưng non dưới cội mai già, Bên hàng liễu rũ là nhà tịnh tâm. Có suối vang vọng thần âm, Tiếng đưa dường thoảng hương trầm lan bay. Xa trông như biếc tàn cây, Bóng che chở thế gian này khác

Triệu Cát Tường

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa trên bến hoa tươi Có ông lái khoác áo tơi đưa thuyền. Kẻ sang, người tới hai miền, Một sào đẩy nguyệt, đôi triền xông mây. Chiều kia trong chuyến đò đầy Có bà trưởng giả thôn Tây đi cùng. Con thơ ôm bế trong lòng, 5.850. Đứa con mắt sáng, mô

Hạnh nhẫn nhục

Thơ   •   08.11.2021
Nhớ hồi Phật tại thành La, Trong vườn lục trúc ngự nhà dải vân. Với năm La-hán Kiều-trần, Lại thêm Ca-diếp và ngàn Tỷ-khiêu. Vượt qua bến mộng phù kiều, Như bầy tiên hạc dập dìu cánh bay. Sớm dời thành Bắc sông Tây, Chiều sang Nam hải vui vầy chờ Đô

Kệ khai kinh

Thơ   •   08.11.2021
khơi lò trầm thanh tịnh ngâm dòng thơ cúng dường hào quang mười phương Phật tỏa áng kinh hiền lương nguyện ba đời cõi pháp tuyên lưu giải thoát hương Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát Ma-ha-tá

Chính đạo

Thơ   •   08.11.2021
Trong làn gió sớm vi vu, Vườn kỳ trăm dặm sương mù còn vây. Chim vừa thức động lá cây, A-nan dâng nước hầu Thầy đã xong. Ung dung đến dưới cội hồng, Ngồi lên tảng đá, trải lòng từ bi. Quán mười phương cõi lưu ly, Nước mây tạo vật thu về một thân. Dù

Bố thí đầu

Thơ   •   08.11.2021
Thuở xưa nước Tỳ-xá-ly, Đất thơm in dấu từ bi Phật-đà. Có rừng cổ thụ ta-la, Một chiều chim rộn trong hoa hát mừng. Tay Phật cầm nhánh lan rừng Quay sang phía hữu bảo rằng “A-nan! Đạo ta như khói chiên đàn, Mười phương pháp giới tỉnh hàng nhân thiên.

Phép mầu khai ngộ - phần 1

Thơ   •   08.11.2021
Nhớ thời Phật tại thành Vương, Cùng chư đệ tử ngự vườn trúc xanh. Vua Bình-xa phát nguyện lành Quy y Tam bảo tu hành đã lâu. Khuyến dân tinh tấn đạo mầu, Trị đời lấy giải oán sầu làm phương. Dưới trên nhuần một lòng thương, Dân giàu nước mạnh biên cư

Huỷ thân cầu đạo

Thơ   •   08.11.2021
Lại nghe một thuở xa kia, Cách vô lượng kiếp Phù-đề châu nay, Có nước hào rộng thành dày, Có non hoa tía ngày ngày ngậm sương. Là nơi thạch động mây vương, Bên dòng suối bạc, cạnh nương liễu đào. Năm trăm tu sĩ thanh cao Ẩn trong động núi tiêu dao th

Phép mầu khai ngộ - phần 5

Thơ   •   08.11.2021
3.550. Hay chàng biến hóa, như lời đồn xưa. Có tài hô gió gọi mưa, Đánh xong trăm trận như vừa trở tay. Gục đầu nàng thiếp hồn say, Gà đua tiếng gáy chân trời mờ sương. Sáng nghe sẻ hót đầu tường, Tỉnh ra lệch đệm xô giường vắng ai. Buồng gương tóc c

Xuống biến tìm Kinh - phần 2

Thơ   •   08.11.2021
(tiếp theo phần 1) Ở ăn sao được công bình đó đây. Bao nhiêu chuyện tích xưa nay Đều thành gương sáng đắp xây nước nhà. Soạn xong Thí mới xuất gia, Dựng am cỏ, rũ trần sa, tu hành. Trầm tư phá mộng huyễn trần, Đời đời giả tướng một lần tan mâ

Dứt luỵ trần

Thơ   •   08.11.2021
Một thời đức Phật du phương, Ngự trong vườn trúc mây vương biếc chiều. Bên dòng suối cát trong veo, Gian nhà cỏ dựng mây neo hững hờ. Trên thảm cỏ nhung ven bờ, Dưới cội hoa trắng vật vờ hoàng hôn. Người ngồi quanh Phật Thế tôn, Trước Ngài đặt một lò

Bà buôn tơ trợ đạo

Thơ   •   08.11.2021
Một sáng dưới rừng ta-la, Nhụy vàng hương cuộn như là bụi bay Cúng dường trải xuống đài mây, Đậu trên áo Phật hiện bày hào quang. Gió chăng phất phới mây vàng, Nắng pha sương nhụy ươm hàng tơ rơi. Quanh thềm đá hiện rừng người Chắp tay búp ngọc nở mư

Chàng Kim Thiên

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa, nơi biệt thất kia, Gần non sim tím, bốn bề cúc lan. Chim ca trong nội cỏ vàng, Nghe văng vẳng thấy âm đàn suối tơ. Phu nhân sinh trẻ khôi ngô, Cành cao, lộc quý trổ vừa tiết Đông. Bé trai bụ bẫm trắng hồng, Hơi thơm như thể cánh bông nhung

Ngàn ngọn hương dâng

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa lại cũng châu này, Một vua hiền đức là ngài Lý Sa. Trị muôn cõi nước gấm hoa, Bốn phương như thể một nhà an vui. Thái bình thịnh trị nơi nơi, Dân coi vua thể như người cha yêu. Ngài thường sớm tối đăm chiêu, Cái thân hoại khổ diễm kiều mà ch

Một lòng trợ đạo - phần 2

Thơ   •   08.11.2021
Đạo này chẳng hiểu từ đâu truyền vào. Thấy cha thấp thoáng song đào, Nàng ra khép nép cúi chào lão thân. Ông rằng “ta đang phân vân, Vì nghe thuyết giảng trăm phần lạ tai. Chẳng hay con học nơi ai Mà thông lý đạo tuyệt vời biết bao?” Nàng thưa “đức P

Một lòng trợ đạo - phần 4

Thơ   •   08.11.2021
Trần gian một cõi Bồ-đề chở che.” Tu-đạt cung kính hầu nghe Lời thiền sư tỉnh giấc mê trường đời. Thế rồi vừa một tháng trời, Vườn Kỳ dựng đủ năm mươi ngôi nhà. Giữa nơi dị thảo kỳ hoa, Lại riêng dựng một ngôi nhà gỗ thơm Làm chỗ ngự của Thế tôn, Bê

Trăm con hạc trắng

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa châu Diêm-phù-đề, Có vua thánh trị là Lê Thái Bình. Núi sông hùng vĩ quang vinh, Hậu cung rực rỡ muôn cành sắc hương. Với bao hoàng tử siêu phàm, Lại thêm văn võ bách quan trung thành. Phồn hoa lầu các như tranh, Đồng quê thảm lúa trải xanh

Hội Phật dưới hoa

Thơ   •   08.11.2021
Chính tôi nghe kể một thời, Bên thành Xá-vệ giữa nơi đạo trường. Vì nguyện độ chúng mười phương, Cùng vào trí Phật, lòng thương vô bờ. Trải bao năm lắng tâm tu, Nằm sương, gối cỏ cho dù khổ đau. Giơ tay xô đổ thành sầu, Dứt tham, mê, giận, tâm mầu nh

Đại Kiếp Tân Ninh

Thơ   •   08.11.2021
Một thời, trong ánh từ quang, Toàn dân Xá-vệ bốn phương vui hòa. Có người thương khách lại qua Đem lời xưng tụng truyền xa cõi ngoài. Vua Kim Địa quốc, vốn người Thắng dư ngàn trận, vang trời oai danh. Hiện là Đại Kiếp Tân Ninh, Nghe khen nước khác,

Chú Tâm Mai

Thơ   •   08.11.2021
Một thời sau Phật Niết-bàn, Bốn phương rực ánh huy hoàng trí bi. Khói hương tự viện xanh rì, Nơi nào nơi chẳng triển thi đạo vàng. Khiến cho các nước lân bang, 5050. Bỏ theo tà đạo quay sang lẽ thường. Theo nhau thiết dựng đạo trường, Như sen thắm nở

Hoá thân cứu đời

Thơ   •   08.11.2021
Đài hoa còn đọng sương mai, Khu thành La-duyệt nắng phơi phới vàng. Chim từ non biếc tìm sang, Như mây vân tập ca vang rừng tùng. Bên đồi Phật dạo thung dung, Ngắm sương đọng nhụy tựa dòng ngọc soi. Ngàn bông nở cánh tuyệt vời, Gió thơm cũng thoảng h

Phép giới trai

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa trong rừng đàn hương Có nhà mái lợp mây vương sớm chiều. Đường lên khúc khuỷu cheo leo, 4.250.  Lội qua con suối lưng đèo cỏ non. Cửa rừng đôi nhịp cầu son, Dưới tàng hoa trắng, hao mòn bóng in. Thế tôn ở giữa đồi sim, Mái leo hoa mướp,

Phép mầu khai ngộ - phần 3

Thơ   •   08.11.2021
3.050. Sau cầu pháp độ trần ai mê lầm. Đỉnh ngọc đốt giải thoát trầm, Giữa nền thủy tạ trên đầm mênh mông. Phật nhập định phóng thần thông, Mười phương vũ trụ hiện trong lòng từ. Mây vàng tỏa khắp thái hư, Dệt nên bài kệ chân như nhiệm mầu. Khiến chú

Phép mầu khai ngộ - phần 2

Thơ   •   08.11.2021
2.750. Truyền lưu mối đạo tôn vinh đời đời. Lại nghe vua Phạm sang chơi, Cùng vua bốn nước rợp trời tàn xe. Lục sư cũng lại theo kề, Lắm bề cao ngạo lắm bề vọng ngôn. Thách Phật tỷ thí thần thông, Dựng nhà thiệt chiến, rước công chúng vào. Sáng sau P

Lão đánh cá và thần biển

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa dân xóm giang hà, Trên bờ sông liễu thướt tha mấy hàng. Một hôm chung tậu thuyền buôn, Tìm châu ngọc giữa đại dương bềnh bồng. Dẫn thuyền là lão ngư ông, Thạo nghề biển, lại giữ lòng giới trai. Thâm sâu giáo lý Như Lai, Vượt trên sóng bạc b

Chúa tiên cúng Phật

Thơ   •   08.11.2021
Một chiều lãng đãng mù sương, Vườn Kỳ thấp thoáng sao vương nội đào. Chim về xào xạc non cao, Tiếng chuông tịch mặc tan vào thâm u. Âm âm nhè nhẹ trầm từ, Ngọn triều dâng ngập thái hư tròn đầy. Thấm trong nội cỏ ngàn mây, Như trăng hiện tướng giục bà

Cá ba đầu

Thơ   •   08.11.2021
Một sáng sương mù vừa tan, Bên sông thấp thoáng y vàng như hoa. Giáo đoàn đức Phật vừa qua, Bước trầm lẫn tiếng chim ca nội ngoài. Áo tơ pha dải mây dài Như tia nắng mới vương đài sen hương. Thế tôn là ánh triêu dương, Sau ngài là một đông phương chó

Thiên tán ca - phần 2

Thơ   •   08.11.2021
PHÁP TÁNH Bước lên trí huệ siêu phàm, Cũng là đường xuất thế gian mê mờ. Chẳng còn đứng giữa đôi bờ Bâng khuâng trầm nguyệt, vật vờ phù vân. Một lòng ly huyễn lìa chân, Phá muôn thành quách phù trầm chiêm bao. Ung dung trong ánh bạch hào, Mười phương

Người con hiếu hạnh

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa Phật ở đất La, Trong vườn lục trúc nơi nhà cỏ tranh. Ngày ngày hóa độ trong thành Như chim Thu tự cõi thanh tịnh về. A-nan hiền giả hầu kề, 1.450.  Bước chân theo nở đóa lê đậm đà. Cổng Đông có một túp nhà, Ông thường thấy vợ chồng già

Rũ áo hồng trần

Thơ   •   08.11.2021
Lại tôi được thấy tỏ tường, Một thời Phật ngự trong vườn Cấp Cô, Dưới cây thái tử Kỳ-đà, Bốn mùa cây cỏ ra hoa cúng dường. Sáng kia Xá-vệ thành sương, Cửa ngoài nở mặt trời hường sáng soi. Phật mang y, bát rạng ngời Bước chân tịch mặc trong đời tham

Vẽ tranh hoá đạo

Thơ   •   08.11.2021
Nắng mai tươi sắc y vàng, Phật cùng hiền giả A-nan lên đường. Bầy chim rời cội lá sông, Bay theo cất giọng hát mừng chân như. Tiếng nào lạnh giữa tâm hư, Lòng hoa hồ cũng trầm tư diệu vời. Thành xa một giải chân trời, Cờ pha mây đỏ ủn hơi vọng đài. S

Nhân quả chẳng dời

Thơ   •   08.11.2021
Xưa, nơi ngàn biếc thông reo, Chim muôn giọng hót, bướm nhiều cánh tươi. Nhìn lên triền núi khơi vơi Cạnh dòng suối nhạc, gần trời mây non. Có nhà mái cỏ chon von, Cảnh người gà trống nuôi con ngậm ngùi. Bữa khoai bữa sắn lần hồi, Sao thưa nhớ bạn,

Hoa đơm hố lửa

Thơ   •   08.11.2021
Bạch Thầy: một kiếp xưa kia, Lê Thiên vua cõi Phù-đề châu Diêm Hạ sinh thái tử ngoan hiền Muôn muôn cõi dậy Lê Kiền danh thơm. Thiên năng trí tuệ phi thường, Riêng nơi động núi hoa vườn tĩnh tâm. Lòng ưa chính pháp cao thâm, Thường đi khắp nước suy

Tiền thân của vị vua trời

Thơ   •   08.11.2021
Thôn xưa, hoa nở rực đường, Sớm mai trời biếc sương vương dặm dài. Lá xanh như vạn mây đài, Đựng muôn hồng ngọc tỏa soi diệu kỳ. Chân trời mây lẫn cò đi, Cánh như lụa uốn xanh rì thảm tơ. Sóng xa vọng tiếng đò đưa, Gió thơm từ núi mai mơ thoảng về. B

Giữa đài mây toả

Thơ   •   08.11.2021
Rằng xưa có một vua hiền, Trần-lan-ba, ấy là tên họ nhà. Ngài trị châu Diêm-phù-đề, Khắp muôn cõi nước theo về cậy trông. Vương phi trăm tía ngàn hồng; Đại thần, một vạn quan trông nước trời. Thái bình an lạc nơi nơi, Mưa hòa, gió thuận, lòng người h

Con chim soi nước

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa trong ấp bạch mai, Chủ nhân có một trang đài tiểu thư. Cẩm Hồng nàng độ đào tơ, Lầu riêng khép nguyệt nhụy vừa hương bay. Khi ra khiến bướm vờn say, Khi vào khiến cả cỏ cây ngẩn lòng. Tơ duyên đã ướm thôn trong, Cùng chàng họ Bạch cũng dòng

Phép mầu khai ngộ - phần 4

Thơ   •   08.11.2021
3.300. Đức vua cùng với quần thần quản chi. Có hôm trong buổi triều nghi, Ngài khuyên văn võ hướng về đạo chân. Trị người cốt dẹp mê sân, Tuyên dương chánh pháp, tự thân hành trì. Diệt an mầm cội tham si, Nước dù muôn cõi khác chi một nhà. Ngoài hiê

Hạnh nguyện

Thơ   •   08.11.2021
Nhớ xưa khi đấng Pháp vương Ở Kỳ-xà-quật núi sương ngút trời. Gặp phen thời tiết đổi dời, Phật vừa thọ bịnh, cho mời vị lang. Thầy ngụ trong Cúc Mai trang, Bên dòng sông nhỏ buông hàng liễu dương. Vợ chồng nổi tiếng y vương, Cứu người tật bệnh tai ươ

Nước vua Phạm Thiên

Thơ   •   08.11.2021
Một hôm bên La-duyệt thành, Nơi vườn mai trúc đôi cành hoa bay. A-nan ngồi dưới cội cây, Trên tòa đá trắng sớm ngày sương vương. Bỗng đâu gió thoảng trầm hương, Ngài nhìn đôi bướm cánh hường ngất ngây. Nghĩ rằng hoa để thơm cây, Khác gì Phật hiện cõ

Con rắn cúng ngọc

Thơ   •   08.11.2021
Thế tôn nhìn ngắm mây bay Sớm qua núi biếc, chiều này sông lam. Ngài truyền hiền giả A-nan Bảo cho đại chúng khóa an cư là: “Như sông gợn bóng mây qua, Như non bát ngát đường hoa vân trình, Trầm tư khai mở trí mình, Từ bi hóa độ chúng sinh mọi loài.

Năm trăm người mù

Thơ   •   08.11.2021
Một thời đức Phật hóa duyên, Bước chân giác ngộ miền miền kính tôn. Dấu đi nở một sen hương, Mỗi lời dựng một thái dương lòng người. Dù nơi thành bãi chân trời, Đâu đâu cũng thấm nhuần lời trí bi. Một hôm có bọn mù kia, Năm trăm người ngụ Xá-ly ngoạ

Trồng đào cúng Phật

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa nơi Xá-vệ thành, Có nhà giàu nọ phúc lành dày lâu. Thường hay giúp kẻ cơ cầu, Khiến cho giải oán vơi sầu nhiều nơi. Cho nên phước báo tuyệt vời, Sinh được một trẻ khác đời xưa nay. Vừa ra đã biết hỏi ngay: ”Cha ơi, Phật vẫn trụ đời phải chă

Luyện kiếm độ đời

Thơ   •   08.11.2021
Thời xưa ở trại phù vân, Có giàn thiên lý thơm ngần đơm hoa. Bốn mùa thu lại xuân qua, Chim về ăn trái quanh nhà hồng mai. Chủ nhân sinh được một trai, Trong ngày sương kết thành đài hoa rơi. Lại thêm mấy cánh hạc trời, Múa kêu đôi tiếng tuyệt vời rồ

Tìm duyên giải thoát

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa có đền Thùy Dương Ven sông, sớm tối khói hương phụng thờ, Bốn mùa chim tụ mây đưa, Hoa dâng nắng sớm, lau thưa khói chiều. Lại, qua, xe ngựa dập dìu, Ai không hiến lễ ít nhiều hoa hương. Một hôm có khách thập phương, Là quan tể tướng thành v

Thiên tán ca - phần 1

Thơ   •   08.11.2021
PHÁP ÂM Lời vàng dậy đỉnh non xưa, Ngàn năm truyền đến bây giờ còn tươi. Còn vang vọng trái tim người, Tạo nên sức sống nơi nơi từ hòa. Như chuông thần gợn dư ba, Lay cơn mưa trải Ta-bà xanh xao. Như hương xuân giục bông đào, Càng dầy sương tuyết cà

Vi Diệu Tỳ-khiêu-ni - phần 1

Thơ   •   08.11.2021
Một thời Phật trụ nơi đây, Như mưa xuân đượm cỏ cây đồng đều. Người người theo đạo cao siêu, Khác chi cây cỏ kết nhiều trái thơm. Một lòng như pháp y nương, Mỗi người là một đạo trường trí bi. Trong thành Xá-vệ nước kia, Có ngàn thiếu nữ quy y Phậ

Thắng lòng tham dục

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa trong xóm Trầm Hương, Từng đôi cò đậu trên đường tre xanh. Chân non suối lụa viền quanh Nhịp cầu trúc nhỏ uốn ngành kiêu sa. Là nơi trang trại cúc hoa Của một dật sĩ khề khà thu đông. Ngày ngày trồng cải ươm bông Hoặc chôn mấy hũ rượu hồng đ

Xuống biến tìm Kinh - phần 3

Thơ   •   08.11.2021
(tiếp theo phần 2) Ngục sầu chẳng ngõ mà tan, Dấu chân là cõi Niết-bàn tự tâm. Độ đời đại nguyện vừa xong, Hạc vàng lại cất cánh bồng suối mây. Bốn vị long vương biển này Hóa ra một chiếc võng đầy trăng sao Đưa Đại Thì đến rừng nào, Là muôn h

Chim tiên cầu đạo

Thơ   •   08.11.2021
Lại thưa cũng ở châu Diêm, Thuở xa xưa có vua hiền Tạ Thi. Núi sông nghìn cõi quy về, Triều đình, vương quốc Bạt-đề cậy oai. Lúa ngô xanh ngát chân trời, Miền miền an lạc, người người âu ca. Ơn vua thắm cỏ tươi hoa, Dù nơi hải giác thiên nha cũng từ

Một lòng trợ đạo - phần 1

Thơ   •   08.11.2021
Nhớ xưa vùng ngát hương cau, Nơi dinh cơ bậc sang giàu vô song. Là ngài Tu-đạt chính trung, Phò vua giúp nước cường hùng một phương. Ngài thường trải rộng lòng thương, Giúp người cô độc vất vương bụi bờ. Lại dành riêng cảnh nên thơ, Cho ai đau ốm nươ

Sạch, nhơ cũng một lòng này

Thơ   •   08.11.2021
Chuyện xưa tại xóm Bình Đông, Gần thành Xá-vệ có đồng nho tươi. Là nhà hào phú đắc thời, Cậy quyền ức hiếp bao người cực thay. Muộn mằn vợ mới mang thai, 5.300.  Tưởng là quý tử, mừng vui đợi chờ. Nào hay khi trẻ sinh ra, Không tai, không mắt xấ

Bố thí mắt

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa, trong một rừng cây Bên thành Xá-vệ, dưới mây phớt hồng. Chim vi vút hót trong sương, Hoa man mác nở bên đường mát tươi. Hương bay mấy dặm tơ trời, Nhà tranh đôi nếp thoảng hơi tịnh trầm. Tiếng vàng giữa chốn tuyền lâm, Như xuân suối chảy nh

Ngọc nở thành sen

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa, một sớm hồng pha Áo bầy thôn nữ tỉa hoa ngoại thành. Truyền nhau tin miệng loan nhanh Rằng có một trẻ vừa sanh tuyệt vời. Trang nghiêm tướng mạo khác đời, Lòng tay như ngọc tỏa ngời hào quang. Ai nghe chẳng ghé mai trang, Đòi xem tận mắt rõ

Một lòng trợ đạo - phần 3

Thơ   •   08.11.2021
Thân cây thành cán xuyên vào nghiêng che. Hai lần pháp bị phá đi, Thấy lo, ngoại đạo thầm thì bàn quanh. Cử ra một gã áo xanh, Khoa tay niệm chú phi hành cưỡi mây. Tàn đào thành lưới bủa vây, Tên kia nhảy xuống mặt mày xám tro. Lại người nổi trận gió

Bắc cầu dâng Phật

Thơ   •   08.11.2021
Rằng xưa có một nhà kia, Bên bờ suối liễu bốn bề tùng reo. Mây bay nườm nượp sớm chiều, Tiếng chim ăn trái buông đều nhạc rơi. Ngày kia sinh hạ một trai, Sương thành hoa gấm bay lơi xuống thềm. Hương dâng ngát thoảng quanh miền, Nhân đây mới đặt Hoa

Vì đức quên thân

Thơ   •   08.11.2021
Thời xưa tinh xá Ni-câu, Lưng non sương tỏa nhịp cầu treo mây. Suối cao tung dải tơ bay, Sớm mai hồng đượm, cuối ngày vàng pha. Đầu non tùng bách reo ca, Sườn mây biếc tụ quanh nhà cỏ thơm. Chim kêu lau nội hoa cồn, Tiếng tan như giục suối dồn âm tha

Vi Diệu Tỳ-khiêu-ni - phần 2

Thơ   •   08.11.2021
8.050.  Mụ ra tỉnh đó, dám ngần ngại chi. Nơi đây xe ngựa bốn bề, Đưa nàng vào một nhà kia lạ lùng. Mụ thầm thì chuyện buồng trong, Rồi ra bảo “hãy nén lòng ở đây. Tôi đi lo giúp việc ngay, Người quyền quý tại chốn này thiếu chi.” Dứt lời mụ vộ

Năm trăm người nghèo

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa trong rừng mơ xanh, Có chim tụng trái trên cành thu hoa. Là vườn thái tử Kỳ-đà Cúng dường đức Phật đôi nhà cỏ thơm. Mây từ vân tập bốn phương, Khói hồ gợn tiếng trầm chuông gió chiều. Từ lâu có bọn dân nghèo, Năm trăm người vẫn hầu theo Phậ

Áo rách lòng vàng

Thơ   •   08.11.2021
Một đêm Phật chiếu quang minh, Nghìn trùng mây kết thủy tinh điện đài. Hiện chân tướng khắp muôn loài, Trong hồ sen trắng cõi ngoài vô biên. Nước hồ là cõi đại thiên, Chúng sinh hiện đóa bạch liên trùng trùng. Đóa thì vươn ngát hư không, Đóa thì vừa

Đức vua và con voi

Thơ   •   08.11.2021
Nhớ xưa, ngày đức Như Lai Bước vân du tới vườn mai trổ hồng. Có hồ sen nước búp trong, Đáy in xanh thẳm hàng thông vươn mình. Đôi gian nhà đất mái tranh, Bên cầu tre uốn qua ghềnh suối thơ. Tin lành mới được nghe qua, Quốc vương Xá-vệ liền ra đạo trư

Cơ duyên

Thơ   •   08.11.2021
Khơi trầm thơm tụng kinh Hiền, Núi Đông thoát hiện một viền gương nga. Vườn nhài đơm trắng ngàn hoa, Tầm hương chim cũng la đà bay sang. Nến rơi lã chã giọt vàng, Trang kinh lấp lánh đôi hàng sao in. Gió lay tờ nguyệt im lìm, Mỗi dòng chữ mở cánh ch

Nàng Vân Anh

Thơ   •   08.11.2021
Xưa, miền núi đó đẹp vui Bên sông uốn khúc in trời như tranh. Có người trưởng lão hiền lành Dựng nhà bãi núi, vườn xanh bốn mùa. Ngày vui xới đất trồng hoa, Vuốt râu cười giữa Ta-bà khói sương. Khi trà dưới rặng liễu dương, Khi rong thuyền rượu dõi đ

Người mẹ từ hoà

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa, ông Lê Kỳ Di, Triều Ba-tư-nặc là bề tôi trung. Có bảy trai quý nối dòng, Sáu anh sớm đã đào hồng đẹp đôi. Còn em thứ bảy là người Uyên thâm lý đạo tột vời tài hoa. Lão quan nghĩ tuổi đã già, Muốn cho con cái thành gia đủ đầy. Nhưng tìm dâ

Phụng Đô - phần 2

Thơ   •   08.11.2021
7.100.  Chợt buồn cá chậu chim lồng quẩn quanh. Ngắm trời bát ngát trăng xanh, Chim đơn tung cánh vượt thành hoa mây. Chim ơi biển Bắc non Tây, Còn ta chật hẹp tháng ngày công danh. Chim ơi đồng tía non xanh, Còn ta quanh quất trong thành chiêm

Phụng Đô - phần 1

Thơ   •   08.11.2021
Xưa, nơi xóm trúc thôn đông Có nhà vườn rộng cây trồng tốt tươi. Lúa ngô xanh một nương dài, Nối dòng hiền đức, sinh người khôi ngô. Ba trai hẳn vững cơ đồ, Lại riêng chàng út: Phụng Đô biệt tài. Đã thường cần mẫn hơn ai, Dâu xanh tốt lá, lúa dài trĩ

Thay đổi dung hoa

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa, trong một vườn hương, Mái lầu trời lợp, nẻo đường mây sa. Điện son gác tía đôi tòa, Là nơi công chúa xấu xa lạ đời. Vừa trông ai chẳng rụng rời, 1.500. Trần gian nào thể có người dị hơn. Tên nàng vua đặt Kim Cương, Riêng xanh ngại liễu, riê

Giếng mắt rồng

Thơ   •   08.11.2021
Một chiều mây ửng vườn này, Hoàng hôn nhuộm cánh cò bay chập chờn. Bướm theo mấy luống hoa vờn, Đồi thông xa vọng tiếng đờn nao nao. Bỗng đâu dưới ngõ hoa đào, Mây năm sắc quyện lối vào nhụy hương. Hào quang sáng rực non sương, Như đèn bảy báu dị thư