Phép mầu khai ngộ - phần 1
Nhớ thời Phật tại thành Vương, Cùng chư đệ tử ngự vườn trúc xanh. Vua Bình-xa phát nguyện lành Quy y Tam bảo tu hành đã lâu. Khuyến dân tinh tấn đạo mầu, Trị đời lấy giải oán sầu làm phương. Dưới trên nhuần một lòng thương, Dân giàu nước mạnh biên cư
Nội dung bài thơ: Phép mầu khai ngộ - phần 1
Nhớ thời Phật tại thành Vương,
Cùng chư đệ tử ngự vườn trúc xanh.
Vua Bình-xa phát nguyện lành
Quy y Tam bảo tu hành đã lâu.
Khuyến dân tinh tấn đạo mầu,
Trị đời lấy giải oán sầu làm phương.
Dưới trên nhuần một lòng thương,
Dân giàu nước mạnh biên cương vững bền.
Người người chung một niềm tin
Noi theo Phật đạo hiếu sinh, hiền hòa.
Biên cương có bọn Phú-na
Lấy điều tà hoặc để mà mị dân,
Khiến lòng thiên chấp chia phân,
Lập bè kết đảng muôn phần đảo điên.
Dẫn người vào nẻo cuồng xiên,
Dễ bề bóc lột, dưới trên đủ điều.
Em nhà vua cũng tin theo,
Tham, si, tà kiến, mạn kiêu dấy lòng.
Vua Bình-xa vẫn hằng mong
Đưa em về nẻo trắng trong đạo Từ.
Kẻo trăm năm uổng thân rùa
Dưới lòng ao biết đâu bờ biển Đông.
Một hôm vua dạo bên sông,
Chỉ em, ngài hỏi: “mấy dòng nước xuôi?”
Gã thưa: chảy một dòng thôi.
Vua khuyên: “nào khác cõi người thế gian.
Trên hòa, dưới thuận, bình an,
Nước ta nhuần thấm đạo vàng bấy nay.
Sáng soi như thể mặt trời
Khiến muôn cây cỏ nảy chồi đơm hoa.
Cớ chi em lại lỉa xa
Con đường trung đạo hiếu hòa, hiếu sinh.
Chấp theo tà kiến vô minh,
Lập bè kết đảng cố tình phân chia.
Sao chưa lìa bỏ, theo về
Quy nương chính đạo đôi bề vẹn đôi.
Một là trí huệ sáng ngời,
Hai nêu gương chánh, muôn người hướng theo.”
Gã rằng: “nước có một chiều,
Mà trăm sông lớn về theo biển trùng.
Người ta muôn ý muôn lòng,
Dù trăm ngả cũng trong vòng thấp cao.
Như tôi tôn quý đạo nào
Là tùy sở thích, ra vào mặc ai.
Ai mà chẳng nghĩ mình hay,
Ai mà chẳng chấp cho thầy mình hơn.
Bây giờ muốn rõ nguồn cơn,
Mời hai giáo chủ song phương luận tài.
Thầy anh nếu quả tuyệt vời,
Thì tôi nguyện sẽ trọn đời xin nương.
Ví bằng thầy của tôi hơn,
Thì xin ngài cũng lựa đường theo tôi.”
Vua cười: “em chớ quên lời,
Ngày mai ta sẽ thân mời đôi bên.
Khiến người khởi vững lòng tin,
Lìa nơi u tối về tìm đạo quang.”
Sáng mai kiệu tía lọng vàng,
Nhà vua thân đến đạo tràng trình thưa
Rằng “xin ngài chuyển Phật thừa,
Mở khai nhật nguyệt, mây mờ dẹp tan.
Cho người tránh khỏi nguy nàn,
Cho đời thoát khỏi nát tan hận thù.
Cầu xin dưới ánh đạo từ,
Dám xin thỉnh đấng Pháp sư muôn loài
Ra tay cứu vớt trần ai,
Xiển dương chính đạo thức người lầm mê.
Dắt dìu bọn ngoại đạo kia,
Bừng con mắt tối theo về nẻo chân.
Giúp cho muôn nước muôn dân,
Chẳng còn thù hận, chia phân mọi bề.”
Sáng ngày hoa kết tàn che,
Dựng đài chuyển pháp lập loè vàng châu.
Lại truyền làng trúc thôn dâu,
Cho dân về học đạo mầu Như Lai.
Hôm sau vừa lức ban mai,
Mây hồng man mác bên ngoài thành hoa.
Người như thác lũ đổ ra,
Ngồi trên nội cỏ quanh tòa khói hương.
Chập chờn giữa áng mây vương,
2.550. Người đem chim thả cúng dường Phật, Tăng.
Giữa tòa trần thiết nghiêm trang,
Ghế bành ngọc trải nhung vàng gấm xanh.
Lục sư sớm tụ trên đàn,
Nghênh ngang bước đến chiếm hàng đôn cao.
Dưới đài dân chúng xôn xao,
Vua Bình-xa đón Phật vào tòa hương.
Mưa hoa trải xuống cúng dường,
Tiếng chim rộn rã bên đường tung bay.
Vừa trông thấy Phật, lạ thay!
Lục sư vội bước xuống đài cung nghinh.
Lại mời Phật ngự tòa trên,
Bỗng dưng hàng ghế cao liền ngang nhau.
Ngoại đạo thân đứng quanh hầu,
Thỉnh Phật thuyết pháp nhiệm mầu lắng nghe.
Em nhà vua thực não nề!
Biết thầy mình chẳng có gì hơn ai.
Nhưng vì lòng chấp sâu dày,
Quyết tâm gã vội đi ngay viện cầu.
Khi Phật vừa giảng đạo mầu,
Người nghe chợt thấy oán sầu tiêu tan.
Như mưa trải khắp thế gian,
Tùy căn cơ đắc vô vàn huệ tâm.
Khởi giác tính, bạt mê lầm,
Nguyện về theo Phật như đầm trổ sen.
Mây xanh phủ xuống quanh miền,
Hoa dâng hương ngát, gió lên dịu dàng.
Phật rời tòa, đắp y vàng,
Cùng thánh đệ tử xuống đàn trầm hương.
Vua đem văn võ đôi đường,
Tiễn chân Phật tới bên vườn đào hoa.
Lại kể, em vua Bình-xa,
Sẵn xe ngựa tốt dời nhà đi ngay.
Đang như bị lửa nung thây,
Lại nghe tín hữu lìa thầy bỏ đi
Về nương cội đạo từ bi,
Lẽ đâu ta lép một bề như ai.
Thế rồi đôn đáo Đông Tây,
Họp chung Lục đạo tìm tay biện tài.
Lại đem lý thuyết suy bày,
Quyết tâm luận chiến phen này xem sao.
Vội vàng thầy tớ theo nhau
Kéo về kinh đọ pháp mầu cùng ai.
Tin vừa trình đến bên tai,
Nhà vua thở ngắn than dài, gọi em.
Rằng “ngươi lời hứa dễ quên,
Cố tình nhắm mắt trước đèn được sao?
Thần dân đã rõ thấp cao,
Lẽ nào em chẳng nương vào quy y?
Đày thân mãi chốn mê si,
Gây thêm lắm chuyện cũng vì đảo điên.”
Gã rằng “thử lại một phen
Để cho vàng đá trắng đen tỏ tường.
Vả chăng đạo chẳng một đường,
Mỗi người riêng một sở trường kém đâu.
Nếu như đạo Thích nhiệm mầu,
Vàng ròng nào sợ lửa đâu, mà chùn?”
Vua rằng “đành cũng chìu lòng,
Mong em tỉnh giấc trần hồng đảo điên.
Khiến thêm kiên cố lòng tin,
Rừng mê em nhớ nên tìm lối qua.”
Nói rồi ngự cỗ long xa
Đến vườn đào lý nơi nhà tịnh thanh.
Vua thưa “tùy thuận chúng sanh,
Lại xin Phật mở pháp lành một phen.
Cho người tắt lửa đua chen,
Cho người thoát lưới đảo điên u sầu.
Thỉnh Thầy hiển lộ đạo mầu,
Nhiếp thu ngoại đạo quay đầu về nương.”
Ngài dừng bên suối mây vương,
Nhìn hoa đào trổ bên đường đua tươi.
Vỗ vai vua, Phật mỉm cười,
Vua liền lễ tạ thân dời cầu mai.
Tàn trương, trống thúc, cờ bay,
Về thành truyền dựng pháp đài nguy nga.
Tin đưa thấu khắp gần xa,
Phật cùng lục đạo Phú-na luận bàn.
Xôn xao ải Bắc thành Nam,
Phố trong xe ngựa, bên thành lều căng.
Vui như mở hội hoa đăng,
Dưới đèn tỏa bạc, trên trăng giải đào.
Đến ngày luận đạo thấp cao,
Bỗng dưng dân chúng nôn nao phố phường.
Kể rằng từ sáng tinh sương,
Phật cùng đệ tử lên đường vân du.
Khiến phường ngoại đạo lục sư
Nghe tin, thích chí say sưa tự hào.
Người em bước thấp bước cao,
Dương dương mày mặt tìm vào gặp vua.
Rằng “trúc lâm vắng như tờ,
Hỏi ra mới biết cuốn cờ kéo đi.
Chạy qua nước Tỳ-xá-ly,
Tưởng rằng trốn lánh dễ thì thoát sao.
Ví dù lẩn dấu non cao
Hoặc nơi địa ngục, trời nào thứ tha.
Bây giờ khắp sáu đạo gia,
Quyết tìm vạch mặt Phật-đà làm gương.
Xem ai lạc nẻo sai đường,
Xem ai đày chốn mù sương mãi nào?”
Lòng vua trăm mối nao nao,
2.650. Hẳn đây có ẩn ý nào sâu xa!
Thiết triều ủy việc quốc gia,
Rồi vua theo Phật đến nhà Luật-xương.
Lục sư cũng lại hùa sang,
Vênh vênh phách lối, huênh hoang đủ điều
Rằng “tôi hẹn thi phép mầu,
Ai ngờ họ Thích kéo nhau ẩn mình.
Nếu xin thua, cũng vị tình,
Cớ chi mà phải ôm bình qua đây.
Nhờ ông nhắn sau bảy ngày,
Bọn tôi xin đợi chốn này cung nghinh!”
Luật-xương nghe nén bất bình,
Lại thương cho bọn vô minh bất tài.
Thấp cao ở đức hạnh người,
Phải đâu tranh cãi tìm lời hơn thua.
Ngã, nhân rũ sạch bao giờ,
Còn chi cao thấp, trong bờ vọng mê.
Ôi thôi, cái bọn ngu si,
Ếch nằm đáy giếng biết gì trời đâu.
Nghĩ rồi ông cũng gật đầu,
Hứa đem thỉnh Phật sở cầu bọn kia.
Lục sư đắc ý quay về,
Nghênh ngang dưới mắt bốn bề không ai.
Luật-xương thân đến hầu Ngài,
Chắp tay lễ Phật, tỏ ngay sự tình.
Phật cười đỡ dậy tiếp nghinh,
Non Tây ráng đỏ vươn mình trôi mau.
Luật-xương vái tạ cúi đầu,
Lên yên đủng đỉnh qua cầu gió trăng.
Về nhà sửa lễ cúng dàng,
Lại sai người lập pháp đàn trang nghiêm.
Cáo cho dân chúng quanh miền
Biết ngày Phật chuyển pháp hiền độ sinh.
Bảy ngày sau mới bình minh,
Lục sư tìm đến lễ đình theo nhau.
Đợi hoài chẳng thấy Phật đâu,
Mới hay Ngài đã sang Châu Diệm thành.
Vua Ưu-điền tự thân hành
Ra ải đón bực cha lành nhân thiên.
Lục sư vừa mới hay tin,
Cùng Luật-xương với vua Bình-xa theo.
Vội qua Châu Diệm hoàng trào,
Thừa cơ hội, họ lẻn vào khoe khoang
Rằng “thần thách thức Cồ-đàm
Trổ thi thần phép, tranh bàn đạo sâu.
Hai lần hứa chẳng thấy đâu,
Ai dè họ Thích kéo nhau lẩn hoài!
Bây giờ thần ngụ nhờ đây,
Xin vua truyền bắt tớ thầy họ kia.
Thấp cao cho rõ mọi bề,
Cho người còn đắm giấc mê giật mình.”
Vua Ưu-điền nén bất bình,
Cũng vì nghĩ nể chút tình lý lân.
Bằng không đã thét ba quân
Bêu đầu cả bọn chẳng cần đúng sai.
Làm thinh vua bỏ ra ngoài,
Ghé qua chầu Phật trình bày việc kia.
Mỉm cười Phật chẳng nói gì,
Nhà vua từ tạ lui về long xa.
Sáng sau truyền dựng pháp tòa,
Lại cho dân biết để mà ân chiêm.
Đến ngày thi triển pháp thiêng,
Đã nghe Phật sớm rời miền bỏ đi
Hóa duyên tới nước Việt-kỳ,
Vua Đà-la đón nghinh về thành Tây.
Vua Ưu-điền được tin này
Kíp cùng nhập bọn theo Thầy phò nghinh.
Lục sư cũng dõi lộ trình,
Lẩn vào triều kiến mặc tình khoe khoang.
Lại xin vua lập pháp đàn,
Quyết hơn thiệt với Cồ-đàm một phen.
Đạo mầu cho rõ dưới trên,
Để ai đánh lận con đen mãi nào.
Khắp thành đồn đãi xôn xao,
Nghe vua thiết lập đài cao mấy tầng.
Sáng sau Phật lại lên đàng
Trở qua Thi-lợi thành vàng hóa trai.
Vua Nhân-đà sửa vườn mai,
Lập nên tịnh xá, hầu Ngài sớm hôm.
Tin ba vua nước láng giềng
Theo phò chính pháp cũng liền tới nơi.
Lục sư cùng đến kịp thời
Phao truyền, kênh kiệu khiến người xôn xao.
Sân rồng xin được qua chầu,
Một đàn thi triển pháp mầu vua coi.
Cầu xin thách đấu với người,
Nhờ vua ngự giữa, trọng tài cuộc thi.
Sáng ngày Phật lại tìm đi
Sang Ba-la-nại kinh kỳ viếng thăm.
Vua Phạm-đạt ngự ngoài thành,
Thỉnh Phật cùng với chúng Tăng cúng dường.
Lại nghe tin nhạn biên cương,
Quốc vương bốn nước lên đường kéo sang
Theo phò ánh sáng từ quang,
Lục sư lại đến khoe khoang đủ điều.
Sáng sau Phật lại xuôi theo,
Băng sông mây nổi, vượt đèo hoa vương.
Qua Tỳ-la-vệ cố hương,
Vua cùng họ Thích ra đường cung nghinh.
Thỉnh Phật thuyết pháp độ sinh,
Bài thơ Phép mầu khai ngộ - phần 1 của tác giả Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long
Nghệ danh: Phạm Thiên Thư
Tên thật: Phạm Kim Long
Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Phạm Thiên Thư - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác