Phép mầu khai ngộ - phần 5
3.550. Hay chàng biến hóa, như lời đồn xưa. Có tài hô gió gọi mưa, Đánh xong trăm trận như vừa trở tay. Gục đầu nàng thiếp hồn say, Gà đua tiếng gáy chân trời mờ sương. Sáng nghe sẻ hót đầu tường, Tỉnh ra lệch đệm xô giường vắng ai. Buồng gương tóc c
Nội dung bài thơ: Phép mầu khai ngộ - phần 5
3.550. Hay chàng biến hóa, như lời đồn xưa.
Có tài hô gió gọi mưa,
Đánh xong trăm trận như vừa trở tay.
Gục đầu nàng thiếp hồn say,
Gà đua tiếng gáy chân trời mờ sương.
Sáng nghe sẻ hót đầu tường,
Tỉnh ra lệch đệm xô giường vắng ai.
Buồng gương tóc cuộn trâm cài,
Xin đi dâng lễ miếu ngoài đồi thông.
Thác rằng: chàng đã bằng lòng,
Nên chi tung cánh sổ lồng như chơi.
Xe bon vượt đỉnh xanh ngời,
Bâng khuâng mấy nụ hoa rời cánh hương.
Nhớ nhà ngựa thẳng dây cương,
Được tin thái tử dõi đường băng theo.
Chàng dừng ải cuối cheo leo,
Ngùi trông đôi áng mây chiều buông tơ.
Bông lau ven suối vật vờ,
Bên kia biên giới sương mờ hắt hiu.
Người sầu ngựa cũng buồn thiu,
Vó rơi chốn cũ hồn neo cuối trời.
Bao đêm nến cạn dầu vơi,
Tháng sau mới giả làm người bán cung.
Vì hoa ngựa vượt muôn trùng,
Sang sông nhớ khói, qua rừng nhớ sương.
Một chiều chàng đến thành vương,
Ghé vào quán trọ bên đường tà huy.
Chợt hay: vua nước biên thùy,
Kéo quân sang với sính nghi đón nàng.
Chàng nghe: sáu nước lân bang,
Cành hương đã nức giá vàng bấy nay.
Từ nghe ngọc quý ngoài tay,
Hết đêm tơ tưởng lại ngày thầm trông.
Giờ nghe nàng lánh nhà chồng,
Thế là sửa lễ, thiếp hồng bắn qua.
Tranh nhau chúc ngọc cầu hoa,
Thị uy lại kéo quân ra cõi ngoài.
Triều đình trăm nỗi bời bời,
Đây toan rẽ ngọc, đó lời thiệt hơn:
Làm sao giữ vững biên cương,
Một đường cho vẹn một đường mới hay.
Lão thần có vị tâu bày:
“Kế này hẳn giữ cõi này được yên.
Chi bằng yết bảng cầu hiền,
Cậy ai giữ vững thành liền, quốc gia.
Bấy giờ đáng mặt tài ba,
Bấy giờ sánh ngọc cầu hoa mới bằng.
Nước nào yếu hẳn lui binh,
Nước nào mạnh hẳn kết tình dài lâu.
Thế là châu vẫn hoàn châu,
3.600. Lại không kết oán gieo sầu với ai.”
Sáng sau bảng yết khắp nơi,
Đức vua tìm bực anh tài cứu nguy.
Nổi xung giặc đoạt thành trì,
Kinh đô ngơ ngác, biên thùy khói bay.
Địch nhắn tin: “nhận duyên này,
Rút quân và trả thành ngay, ham gì.”
Trước lời cường địch thị uy,
Có người giựt bảng nguyện đi chiến trường.
Một mình thẳng tới biên cương,
Sóng dâng lớp lớp, mây vương mịt mù.
Giặc trông chưa đánh đã thua,
Người e quỉ sứ, kẻ ngờ thần tiên.
Ra tay đoạt mấy thành liền,
Khiến vua sáu nước lòng phiền khiếp oai.
Cờ hàng ngơ ngác đua bay,
Quốc vương tự đến thành ngoài tiếp tân.
Người đâu mặt quỉ tài thần,
Nửa phần khiếp vía nửa phần kiêng uy.
Hỏi ra nào có lạ chi,
Lê Ba thái tử từng khi nhắc truyền.
Tên người vang khắp sơn xuyên,
Một tay bạt nước láng giềng Tân-la.
Lại là phò mã nước ta,
Trụ trời chống vững sơn hà từ nay.
Thế là ngọc lại hoàn tay,
Vợ chồng như thể mới ngày mật trăng.
Hoàng thành mở hội hoa đăng,
Nhạc ca vi vút, đèn chăng nhạt nhòa.
Sáng ngày vua bảy nước qua
Tôn phong hoàng đế Lê Ba rạng ngời.
Rằng “đây thiên tướng nhà trời,
Sức thần bạt quỉ, thương đời rộng tâm.
Cõi này dù vạn ngàn năm,
Nào ai sánh được sức thần như ai.
Quả trang hiền đức anh tài,
Chúng tôi kính ngưỡng danh ngài bấy nay.
Bây giờ góp sức chung tay,
Xin ngài thống nhứt cõi này cho yên.
Trước sau nguyện dưới điện tiền,
Lấy điều hòa thuận kết liên mọi nhà.
Bỏ vũ khí, dẹp can qua,
Hiếu sinh làm cội, hiếu hòa làm duyên.
Để cho thuận dưới hòa trên,
Để cho khắp chốn nể kiêng cõi bờ.”
Trình rồi bảy nước tung hô,
Liên bang bền vững cơ đồ từ đây.
Cờ tung lá gọi ngàn mây,
Trống khua đất chuyển tàn vây thành ngời.
Cùng nhau vạch đất nguyện trời,
Rượu thề cắt máu chung lời sắt son:
Nguyện dù biển cạn đá mòn,
Chung nhau giữ vững nước non phú cường.
Tháng sau đưa vợ hồi hương,
Tiễn đưa hoàng đế, bảy vương theo kề.
Một đoàn trống thúc tàn che,
Hàng hàng voi ngựa, xe xe ngọc vàng.
Cờ theo nhã nhạc tấu vang,
Voi anh dẫn trước, kiệu nàng áp sau.
Dập dìu sáng ngọc tươi châu,
Sông xưa giờ cũng tươi màu dương hoa.
Tin vui báo đến vua cha,
Khắp đường hoa kết mọi nhà đèn thêu.
Lại vua trong buổi thiết triều,
Truyền ngôi thái tử đôi điều vẹn đôi.
“Rằng ta tuổi hạc đã rồi,
Về non tu học trau dồi tuệ thân.
Quốc gia nhờ bực trung thần
Phù trì thái tử muôn phần mở mang.
Rộng tình hòa hảo lân bang,
Dân giàu nước mạnh đạo vàng triển khai.
Cùng nhau liên đức liên tài,
Bên trong thuận hợp giặc ngoài lo chi.”
Thái tử về đến kinh kỳ,
Vẻ vang rõ đức oai nghi rõ hiền.
Khi đi một ngựa một yên,
Khi về bảy nước theo liền rạng oai.
Một tay khuất phục trong ngoài,
Tôn phong hoàng đế lên đài vinh quang.
Vua cha thân mở thành vàng
Đón con, mắt nhỏ đôi hàng lệ châu.
Nước mừng thuở vững kim âu,
Thả tù, miễn thuế, tìm cầu đạo tiên.
Dập dìu ngọc nữ phi tần,
Khúc nghê thường áo xiêm vần vũ bay.
Lúc thì khói nổi hoa lay,
Dáng nghiêng là tuyết tóc bay là huyền.
Tiếng ca như yến như uyên,
Mừng đêm rồng phượng đoàn viên một nhà.
Lầu vàng sánh ngọc kề hoa,
Dìu nhau trong cánh tay ngà ngất ngây.
Rượu hồng ai chuốc chén mây,
Lênh đênh dòng ngọc, vơi đầy âm thanh.
Sớm nghe ríu rít trên cành,
Mây hồng thấp thoáng sau mành liễu tơ.
Nhìn nàng thiếp ngủ như thơ,
Mà ta thế đó, hững hờ bước chân.
Ra vườn soi đáy hồ xuân,
Nghĩ thân mà tủi cái thân dị thường.
Còn đang tha thẩn bên đường,
Bỗng đâu một áng mây vương trước lầu.
Kết thành cỗ kiệu trân châu,
Ngọc vàng lấp lánh muôn màu đưa tươi.
Hiện ra rờ rỡ một người,
Kiệu mây bước xuống mỉm cười trang nghiêm:
“Tôi là Đế-thích vua tiên,
Cùng người vương vấn chút duyên bấy ngày.
Cũng vì nhau hiện về đây,
Có viên bảo ngọc trao tay niệm tình.
Khi nào đem giắt bên mình,
Thì người đổi tướng biến hình như chơi.
Oai nghi tuấn tú khác đời,
Cõi trần chẳng thể có người nào hơn.
E gì liễu ngại hoa hờn,
Lòng kia dẹp hết nguồn cơn từ rày.”
Vừa cầm thần ngọc trên tay,
Đáy hồ chợt hiện một người khác sao.
Nhìn lên kiệu ngọc tàn đào,
Hóa ra mây tía biến vào thinh không.
Vội vàng chàng ghé lầu Đông,
Đưa tay mang thử cây cung nhiếp thần.
Hoàng nương vừa tỉnh giấc xuân,
Bỗng đâu thấy một văn nhân tuyệt vời.
Xăm xăm mở cửa tới nơi,
Vội vàng sửa áo trâm cài đoan trang.
Miệng hoa lanh lảnh tiếng vàng
Rằng “người kia ở đâu sang tự mình?
Lại cầm bảo vật oai linh,
Nói ngay, không chẳng vị tình dung tha!
Cung thần là của chồng ta,
Biết điều trả lại, mau mà lánh ngay!”
Người kia bỏ ngọc trên tay,
Lại là thái tử xưa nay hiện dần.
Nàng còn ngờ vực phân vân,
Lòng chàng giờ mới muôn phần đẹp vui.
Sự tình bày tỏ đôi lời:
“Anh vừa được thưởng ngọc trời quang minh.
Nên chi biến tướng đổi hình,
Từ nay ngọc giắt bên mình khôn xa.”
Vợ chồng sánh ngọc tươi hoa,
Vẹn duyên loan phượng mặn mà hơn xưa.
Đổi tên là Lê Đại Thừa,
Lên ngôi hoàng đế cõi bờ đảm đương.
Lại truyền tu chỉnh triều đường,
Bấy giờ có bốn Long vương hiện về.
Cúi xin lo liệu mọi bề,
3.750. Hóa ra bốn suối pha lê diệu vời.
Nước tràn muôn dặm ùn hơi,
Dựng lên thành quách sáng ngời bảo châu.
Nào là muôn dãy kim lâu,
Nào đường mã não, nào cầu san hô.
Nào rừng chim tụ líu lô,
Nào sông hoa trải, nào hồ sóng lơi.
Trang nghiêm chẳng khác cõi trời,
Nước non cường thịnh, nơi nơi thái hòa.
Phật rằng “duyên nghiệp đâu xa,
Lê Ba kiếp nọ là ta kiếp này.
Sáu vua nước cũ ngồi đây,
Lục sư ngoại đạo ngày rày quy nương.
Quẩn quanh ảo giác mê trường,
Cõi đời tan tụ vô thường vào ra.
Từ đây rũ áo trần sa,
Chim tiên vượt thoát ta-bà nghiệp duyên.”
Vua Bình-xa đứng bên thềm
Rằng “Lê Ba trước tu hiền cách sao?
Đức hiền, sức đọ trời cao,
Mà nghe dị tướng ai nào dám trông.
Chẳng hay duyên nghiệp đèo bòng,
Là chi trong cõi trần hồng trả vay?”
Phật rằng “chính ở cõi này,
Kể vô lượng kiếp cách nay đã nhiều.
Núi kia có vị Tỳ-khiêu
Phá tâm huyễn vọng, sớm chiều công phu.
Nên bệnh phong, mặt sưng mù,
Lê chân hóa độ cho dù đớn đau.
Có bà nọ cúng dường dầu,
Về non chữa bệnh, trước sau nhiều lần.
Chồng bà là kẻ vô ân,
Mỗi lần thấy đến tham sân dấy lòng.
Mắng rằng “ông lão bệnh phong,
Trông như quỉ sứ, chớ hòng tu chi.
Cầm chút cặn, bước mau đi,
Thân đầy ghẻ lở người gì mà ghê.”
Trước lời miệng thế khen chê,
Rộng tâm hỉ xả chẳng nề nọ kia.
Chợt đâu vợ gã quay về,
Lấy dầu tốt cúng một bề kính tôn.
Lại vào nhà nhẹ khuyên chồng:
“Anh xây mãi ngục lửa hồng mà chi!
Biết điều mau tỉnh sân si,
Thành tâm sám hối tội khi mạn ngài.”
Nghe vợ gã hối xin ngay:
“Tham, sân, ác khẩu từ nay chừa dần.
Xin thầy có nguyện chi cần,
Ghé qua, chẳng dám ngại ngần hiến dâng.”
Ngày ngày lão vẫn lâng lâng,
3.800. Qua nhà hóa độ như vầng trăng soi.
Một hôm chứng ngộ đạo rồi,
Sắp lìa giả tướng vào nơi Niết-bàn.
Nghĩ ơn tín chủ cúng dàng,
Hiện về hóa phép chuyển hàng chướng ma.
Thần thông biến hiện một tòa,
Kim thân ngự đỉnh liên hoa sáng ngời.
Hào quang chiếu khắp nơi nơi,
Hóa mưa cam lộ tuyệt vời nhân gian.
Bốn phương rợp tấm y vàng,
Hiện thành tám ngả huy hoàng trên không.
Người xem lắng ý sạch lòng,
Khởi tâm dũng mãnh thoát vòng trần mê.
Vợ chồng gã bán dầu kia,
Phát nguyền thanh tịnh xin về muôn sau,
Nguyện xây nước mạnh dân giàu,
Nguyện khai hóa đạo nhiệm mầu khắp nơi.
Truyền lưu trí tuệ đời đời,
Kết tình chồng vợ chẳng dời nghiệp duyên.
Nhờ trồng cội đức thiêng liêng,
Nên chi quả phúc nhiệm huyền lưu phương.
Trị vì làm Chuyển luân vương,
Nhân duyên báo ứng khôn lường vào ra.”
Nghe xong hoàng đế Bình-xa
Truyền đem bia khắc để mà tu thân.
Triều thần cho đến toàn dân
Lấy mười nghiệp thiện tinh cần tiến tu.
Trời chiều lãng đãng sương mù,
Sông xa khúc hát đò đưa vọng về.
Người lên võng, kẻ lên xe,
Mắt còn hướng lại phía hè trầm hương.
Bài thơ Phép mầu khai ngộ - phần 5 của tác giả Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long
Nghệ danh: Phạm Thiên Thư
Tên thật: Phạm Kim Long
Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Phạm Thiên Thư - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác