Xuống biến tìm Kinh - phần 2

Thơ   •   Thứ hai, 08/11/2021, 15:48 PM

(tiếp theo phần 1) Ở ăn sao được công bình đó đây. Bao nhiêu chuyện tích xưa nay Đều thành gương sáng đắp xây nước nhà. Soạn xong Thí mới xuất gia, Dựng am cỏ, rũ trần sa, tu hành. Trầm tư phá mộng huyễn trần, Đời đời giả tướng một lần tan mâ

Nội dung bài thơ: Xuống biến tìm Kinh - phần 2

(tiếp theo phần 1)

Ở ăn sao được công bình đó đây.

Bao nhiêu chuyện tích xưa nay

Đều thành gương sáng đắp xây nước nhà.

Soạn xong Thí mới xuất gia,

Dựng am cỏ, rũ trần sa, tu hành.

Trầm tư phá mộng huyễn trần,

Đời đời giả tướng một lần tan mây.

Thế rồi đi khắp đó đây,

Tóc xanh nhuốm bụi áo mây nhạt màu.

Thênh thang cánh hạc về đâu,

Bước chân vô ngã vô cầu ngại chi.

Cõi đời còn nặng tham si,

Cứu đời ta có, ước gì ngàn tay.

Cầm bằng chuộc tội cõi này,

Nguyện vào địa ngục đọa đày thiên thu.

Một chiều chàng đứng trầm tư,

9.500.  Trùng dương vang mãi tiếng ru muộn phiền.

Chợt người tinh tấn bước lên,

Nghĩ rằng chân cứng đá mềm mới hay.

Nếu như cõi thế gian này,

Chẳng mê vọng ấy sao dầy trí bi.

Nếu ta chuyển được tham si

Thì vào đáy biển khác gì đường mây.

Nguyện xong đáy nước hiện bày

Rõ ràng một cõi cỏ cây nhiệm mầu.

Trùng trùng ngọc quách vàng lâu,

Lưng non mã não trân châu chói lòa.

Lại thêm ao ngát liên hoa,

Mỗi đài ẩn chứa một tòa diệu kinh.

Sóng dâng bọt đến bên mình,

Kết thành hoa báu dưới chân người lành.

Đại Thí đi đến bên thành,

Ác trùng thủy quái vây quanh bước ngài

Hỏi rằng “đến kiếm chi đây?

Lấy gì để vượt cửa này cho qua?”

Ngài đáp “ta có lòng ta,

Yêu thương muôn loại trong nhà trầm luân.

Có mười phương lớn làm thân,

Đi tìm thuốc chữa tham sân bệnh dầy.

Giờ ta tìm xuống thành đây,

Thử tìm diệu pháp khai bày nhân thiên.”

Ác trùng thủy quái quì bên

Reo to: “hơn hẳn thánh hiền xưa nay.

Chúng con trấn giữ cửa này,

Do tham sân nghiệp sâu dầy hiện ra.

Giờ xin ngài tự bước qua,

Chỉ là ảo ảnh sương sa mịt mù.”

Thí dạy: “khắp cõi Diêm-phù

Cũng từ nghiệp thức thiên thu hiện bày.

Chúng sinh mười cõi đất này

Khác gì sóng nổi sương bay vật vờ.

Tụ tan như đám mây mờ,

Một nhân ái dục đôi bờ diệt sinh.

Mê thì sóng nổi mông mênh,

Ngộ rồi muôn cõi một hình vóc không.

Bao la hiện thể tâm đồng,

Dù cho hạt cải dù bông tuyết đào.

Cũng từ tâm cõi nhiệm mầu,

Khởi duyên như nước qua cầu nổi trôi.”

Nghe xong thành quách sáng ngời,

Nào là thủy quái nào trời hồng vân

Tan đi như bóng vi trần,

Chỉ còn ánh sáng ngọc thần tỏa soi.

Đại Thí nhặt ngọc cầm tay,

Trùng dương như một cõi mây chuyển dời.

Thung dung ngài bước dạo chơi,

9.550.  Dưới lòng bể cả nơi nơi đón chào.

Lại xa xa hiện lầu cao,

Có rừng trái đỏ có hào sen hương.

Có thành thất bảo kim cương,

Sáng soi chiếu khắp bốn phương ngời ngời.

Đại Thí lại tìm tới nơi,

Bao nhiêu quỉ sứ vây người giương tên.

Thành đao lũy kiếm vững bền,

Tên bay giáo phóng dưới trên vụt vù.

Đại Thí vừa niệm nam-mô,

Cung tên thấp thoáng mơ hồ rụng bên.

Hóa ra muôn cánh bạch liên

Cúng dường trải xuống đất liền ngọc châu.

Bao nhiêu quỉ oán ma sầu

Vây quanh thánh chúa cúi đầu quy y.

Xin người đại trí đại bi

Độ cho tỉnh thức mê si nghiệp mình.

Đại Thí vừa qua cửa thành,

Một con rùa biển hóa mình xe mây.

Tàn vàng lọng gấm đủ đầy

Rước qua mấy dặm thành xây ngọc vàng.

Đến tòa bảo tháp kim cang,

Nóc cao thần bút giữa hàng hoa dương.

Ngõ vào cổng khép sóng hường,

Cát xanh biêng biếc trải đường cheo leo.

Đại hồng chuông trái rêu treo,

Thêm đôi phụng múa trên đèo hoàng hoa.

Cửa trong có tiếng vọng ra

Rằng đây chính pháp riêng tòa tạng kinh.

Cửa vào là nghiệp hóa sinh,

Đố ai mở được bồng bềnh cánh mây?

Xin người mau trả lời ngay

Nếu không tất hẳn đường này chẳng qua.

“Cái gì là pháp là ta?

Cái gì khiến một cánh hoa rụng rời?

Cái gì là ý là lời?

Cái gì khiến hạt mưa rơi bàng hoàng?”

Ngài rằng “ngã, pháp đôi đàng,

Chẳng qua lớp lớp sương vàng hóa sinh.

Cỏ hoa một cõi giả hình,

Vị gì mà để vọng tình tiếc thương.

Ý lời như áng mây vương,

Cho dù trăm nẻo trăm đường ngại chi.

Bao giờ dứt sạch tham si,

Giọt mưa cũng thể một vì sao rơi.”

Đáp xong lầu các rạng ngời,

Tan như một đám sương rời sớm mai.

Giữa lòng cát hiện con trai

Ôm nghiêng hạt ngọc như đài phù vân.

Đại Thí cất ngọc vào mình,

9.600.  Bước chân dạo khắp u minh biển dầy.

Lần theo một đàn cá bay,

Lửng lơ nổi mở đường mây dẫn người.

Thung dung chàng đến một nơi

Có hang sâu thẳm tỏa ngời hào quang.

Bọt vần uốn mấy bực thang,

Dưới lòng vực hiện xóm làng cỏ hoa.

Nào là lầu các nguy nga,

Sóng xô thành nhạc rêu sa thành tàn.

Nào là sân bích vườn lam,

Bãi hoa nụ thắm đồi cam trái hồng.

Vân du Thí lại sanh lòng,

Đã đi đi hết dưới lòng biển khơi.

Tụt thang bọt nước tới nơi,

Thôn kia đã hiện tơi bời xương khô.

Nào là quỉ hú mơ hồ,

Nào là ma khóc lạc mồ tỉ tê.

Hôi tanh máu mủ gớm ghê,

Chung quanh lại sủi bốn bề nước đen.

Thương thay bao cuộc đua chen,

Nắm xương phơi trắng là phen cuối cùng.

Càng trông càng thấy não lòng,

Bùi ngùi nhỏ nước mắt trong, hai hàng.

Giọt vừa sa, bãi xương tàn,

Tan đi hóa đám bụi vàng đùn cao.

Dưới trên như lỗ huyệt đào,

Dù trên hóa gió ra vào được đâu.

Tưởng rằng lấp ngọc vùi châu,

Cát từ từ đổ trên đầu bao la.

Thí ngồi quán tưởng trần sa,

Hòa cùng cát bụi một tòa thịt xương.

Cũng là tâm thể chân thường,

Hợp tan như áng mây vương sớm chiều.

Tâm thần bay bổng phiêu diêu,

Lâng lâng như một cánh diều lưng mây.

Thoáng như cát chạm bên người,

Lại như mai hạnh rụng rơi đầy mình.

Lòng thương trải khắp mông mênh,

Nghe thân thể nổi bồng bềnh đâu xa.

Giờ lâu ngài xả thiền-na,

Dưới lòng hang đã vượt ra lúc nào.

Dặm xa thoáng gợn mây đào,

Vờn trên ngọn núi mù cao ngút trời.

Nào là hang động ùn hơi,

Đèn ma lửa quỉ nơi nơi chập chờn.

Tiếng người thét rợn từng cơn

Lẫn trong tiếng sóng oán hờn giá băng.

Thí liền chỉ đất nguyện rằng:

“Quyết vào địa ngục thắp trăng đại từ.

Mười phương tỏ cõi Chân như,

9.650.  Tan cơn vọng nghiệp qua bờ mê tân.

Lòng người chưa cạn tham sân,

Vạc dầu còn lửa nung thân đời đời,

Ý còn điên đảo dối lời,

Lưỡi còn cưa xẻ tơi bời xương da.

Ngục sầu chẳng khép, khó ra.

Tự mình mình lại tìm nhà gai chông.

Đầy thân bảy hố lửa hồng,

Đeo thêm cùm kẹp là vòng nghiệp duyên.

Niết-bàn tám cửa thanh vân,

Xa thì muôn dặm mà gần tấc gang.

Thương thay sáu ngả bụi vàng,

Luân lưu kiếp kiếp con đàng vô minh.

Hỏi ai ai cứu được mình,

Tâm kia là đảo quang minh cậy nhờ.

Ngộ, mê chẳng cách đôi bờ,

Bừng con mắt dậy tan mơ giả hình.

Nguyện đau tâm bệnh chúng sinh,

Thân là cam lộ một bình lợi tha.

Nguyện yên sóng gió Ta-bà,

Chúng sinh vô lượng trần sa trở về.

Thệ lòng quyết bước chân đi,

Vừa vào địa ngục Thiết vi trùng trùng.

Núi xưa tỏa động ngọc hồng,

Vạc dầu chuyển hóa thành bông sen ngời.

Tiếng kêu thương hóa hương trời,

Kết thành sương báu quanh người đại bi.

Đức ngài chuyển ngục Thiết vi

Thành trời Tịnh độ lưu ly ngọc hồng.

Đau thương thành giải thoát trầm,

Mê si thành ánh trăng rằm tỏa soi.

Quỉ ma đổi tánh người trời,

Gông xiềng cùm kẹp thành hơi chiên đàn.

(mời xem tiếp ở phần 3)


Bài thơ Xuống biến tìm Kinh - phần 2 của tác giả Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.

Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long

Nghệ danh: Phạm Thiên Thư

Tên thật: Phạm Kim Long

Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Phạm Thiên Thư - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác

icon Phạm Thiên Thư, Nhà thơ Phạm Thiên Thư, Thơ Phạm Thiên Thư, Tập thơ Hội Hoa Đàm

Tổng hợp

Cùng tập thơ: Hội hoa đàm (1971)

Xuống biến tìm Kinh - phần 1

Thơ   •   08.11.2021
Một hôm đỉnh núi ùn hơi, Mây trên Linh Thứu như trời rắc hoa. Lưng non dưới cội mai già, Bên hàng liễu rũ là nhà tịnh tâm. Có suối vang vọng thần âm, Tiếng đưa dường thoảng hương trầm lan bay. Xa trông như biếc tàn cây, Bóng che chở thế gian này khác

Triệu Cát Tường

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa trên bến hoa tươi Có ông lái khoác áo tơi đưa thuyền. Kẻ sang, người tới hai miền, Một sào đẩy nguyệt, đôi triền xông mây. Chiều kia trong chuyến đò đầy Có bà trưởng giả thôn Tây đi cùng. Con thơ ôm bế trong lòng, 5.850. Đứa con mắt sáng, mô

Hạnh nhẫn nhục

Thơ   •   08.11.2021
Nhớ hồi Phật tại thành La, Trong vườn lục trúc ngự nhà dải vân. Với năm La-hán Kiều-trần, Lại thêm Ca-diếp và ngàn Tỷ-khiêu. Vượt qua bến mộng phù kiều, Như bầy tiên hạc dập dìu cánh bay. Sớm dời thành Bắc sông Tây, Chiều sang Nam hải vui vầy chờ Đô

Kệ khai kinh

Thơ   •   08.11.2021
khơi lò trầm thanh tịnh ngâm dòng thơ cúng dường hào quang mười phương Phật tỏa áng kinh hiền lương nguyện ba đời cõi pháp tuyên lưu giải thoát hương Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát Ma-ha-tá

Chính đạo

Thơ   •   08.11.2021
Trong làn gió sớm vi vu, Vườn kỳ trăm dặm sương mù còn vây. Chim vừa thức động lá cây, A-nan dâng nước hầu Thầy đã xong. Ung dung đến dưới cội hồng, Ngồi lên tảng đá, trải lòng từ bi. Quán mười phương cõi lưu ly, Nước mây tạo vật thu về một thân. Dù

Bố thí đầu

Thơ   •   08.11.2021
Thuở xưa nước Tỳ-xá-ly, Đất thơm in dấu từ bi Phật-đà. Có rừng cổ thụ ta-la, Một chiều chim rộn trong hoa hát mừng. Tay Phật cầm nhánh lan rừng Quay sang phía hữu bảo rằng “A-nan! Đạo ta như khói chiên đàn, Mười phương pháp giới tỉnh hàng nhân thiên.

Phép mầu khai ngộ - phần 1

Thơ   •   08.11.2021
Nhớ thời Phật tại thành Vương, Cùng chư đệ tử ngự vườn trúc xanh. Vua Bình-xa phát nguyện lành Quy y Tam bảo tu hành đã lâu. Khuyến dân tinh tấn đạo mầu, Trị đời lấy giải oán sầu làm phương. Dưới trên nhuần một lòng thương, Dân giàu nước mạnh biên cư

Huỷ thân cầu đạo

Thơ   •   08.11.2021
Lại nghe một thuở xa kia, Cách vô lượng kiếp Phù-đề châu nay, Có nước hào rộng thành dày, Có non hoa tía ngày ngày ngậm sương. Là nơi thạch động mây vương, Bên dòng suối bạc, cạnh nương liễu đào. Năm trăm tu sĩ thanh cao Ẩn trong động núi tiêu dao th

Phép mầu khai ngộ - phần 5

Thơ   •   08.11.2021
3.550. Hay chàng biến hóa, như lời đồn xưa. Có tài hô gió gọi mưa, Đánh xong trăm trận như vừa trở tay. Gục đầu nàng thiếp hồn say, Gà đua tiếng gáy chân trời mờ sương. Sáng nghe sẻ hót đầu tường, Tỉnh ra lệch đệm xô giường vắng ai. Buồng gương tóc c

Xuống biến tìm Kinh - phần 2

Thơ   •   08.11.2021
(tiếp theo phần 1) Ở ăn sao được công bình đó đây. Bao nhiêu chuyện tích xưa nay Đều thành gương sáng đắp xây nước nhà. Soạn xong Thí mới xuất gia, Dựng am cỏ, rũ trần sa, tu hành. Trầm tư phá mộng huyễn trần, Đời đời giả tướng một lần tan mâ

Dứt luỵ trần

Thơ   •   08.11.2021
Một thời đức Phật du phương, Ngự trong vườn trúc mây vương biếc chiều. Bên dòng suối cát trong veo, Gian nhà cỏ dựng mây neo hững hờ. Trên thảm cỏ nhung ven bờ, Dưới cội hoa trắng vật vờ hoàng hôn. Người ngồi quanh Phật Thế tôn, Trước Ngài đặt một lò

Bà buôn tơ trợ đạo

Thơ   •   08.11.2021
Một sáng dưới rừng ta-la, Nhụy vàng hương cuộn như là bụi bay Cúng dường trải xuống đài mây, Đậu trên áo Phật hiện bày hào quang. Gió chăng phất phới mây vàng, Nắng pha sương nhụy ươm hàng tơ rơi. Quanh thềm đá hiện rừng người Chắp tay búp ngọc nở mư

Chàng Kim Thiên

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa, nơi biệt thất kia, Gần non sim tím, bốn bề cúc lan. Chim ca trong nội cỏ vàng, Nghe văng vẳng thấy âm đàn suối tơ. Phu nhân sinh trẻ khôi ngô, Cành cao, lộc quý trổ vừa tiết Đông. Bé trai bụ bẫm trắng hồng, Hơi thơm như thể cánh bông nhung

Ngàn ngọn hương dâng

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa lại cũng châu này, Một vua hiền đức là ngài Lý Sa. Trị muôn cõi nước gấm hoa, Bốn phương như thể một nhà an vui. Thái bình thịnh trị nơi nơi, Dân coi vua thể như người cha yêu. Ngài thường sớm tối đăm chiêu, Cái thân hoại khổ diễm kiều mà ch

Một lòng trợ đạo - phần 2

Thơ   •   08.11.2021
Đạo này chẳng hiểu từ đâu truyền vào. Thấy cha thấp thoáng song đào, Nàng ra khép nép cúi chào lão thân. Ông rằng “ta đang phân vân, Vì nghe thuyết giảng trăm phần lạ tai. Chẳng hay con học nơi ai Mà thông lý đạo tuyệt vời biết bao?” Nàng thưa “đức P

Một lòng trợ đạo - phần 4

Thơ   •   08.11.2021
Trần gian một cõi Bồ-đề chở che.” Tu-đạt cung kính hầu nghe Lời thiền sư tỉnh giấc mê trường đời. Thế rồi vừa một tháng trời, Vườn Kỳ dựng đủ năm mươi ngôi nhà. Giữa nơi dị thảo kỳ hoa, Lại riêng dựng một ngôi nhà gỗ thơm Làm chỗ ngự của Thế tôn, Bê

Trăm con hạc trắng

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa châu Diêm-phù-đề, Có vua thánh trị là Lê Thái Bình. Núi sông hùng vĩ quang vinh, Hậu cung rực rỡ muôn cành sắc hương. Với bao hoàng tử siêu phàm, Lại thêm văn võ bách quan trung thành. Phồn hoa lầu các như tranh, Đồng quê thảm lúa trải xanh

Hội Phật dưới hoa

Thơ   •   08.11.2021
Chính tôi nghe kể một thời, Bên thành Xá-vệ giữa nơi đạo trường. Vì nguyện độ chúng mười phương, Cùng vào trí Phật, lòng thương vô bờ. Trải bao năm lắng tâm tu, Nằm sương, gối cỏ cho dù khổ đau. Giơ tay xô đổ thành sầu, Dứt tham, mê, giận, tâm mầu nh

Đại Kiếp Tân Ninh

Thơ   •   08.11.2021
Một thời, trong ánh từ quang, Toàn dân Xá-vệ bốn phương vui hòa. Có người thương khách lại qua Đem lời xưng tụng truyền xa cõi ngoài. Vua Kim Địa quốc, vốn người Thắng dư ngàn trận, vang trời oai danh. Hiện là Đại Kiếp Tân Ninh, Nghe khen nước khác,

Chú Tâm Mai

Thơ   •   08.11.2021
Một thời sau Phật Niết-bàn, Bốn phương rực ánh huy hoàng trí bi. Khói hương tự viện xanh rì, Nơi nào nơi chẳng triển thi đạo vàng. Khiến cho các nước lân bang, 5050. Bỏ theo tà đạo quay sang lẽ thường. Theo nhau thiết dựng đạo trường, Như sen thắm nở

Hoá thân cứu đời

Thơ   •   08.11.2021
Đài hoa còn đọng sương mai, Khu thành La-duyệt nắng phơi phới vàng. Chim từ non biếc tìm sang, Như mây vân tập ca vang rừng tùng. Bên đồi Phật dạo thung dung, Ngắm sương đọng nhụy tựa dòng ngọc soi. Ngàn bông nở cánh tuyệt vời, Gió thơm cũng thoảng h

Phép giới trai

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa trong rừng đàn hương Có nhà mái lợp mây vương sớm chiều. Đường lên khúc khuỷu cheo leo, 4.250.  Lội qua con suối lưng đèo cỏ non. Cửa rừng đôi nhịp cầu son, Dưới tàng hoa trắng, hao mòn bóng in. Thế tôn ở giữa đồi sim, Mái leo hoa mướp,

Phép mầu khai ngộ - phần 3

Thơ   •   08.11.2021
3.050. Sau cầu pháp độ trần ai mê lầm. Đỉnh ngọc đốt giải thoát trầm, Giữa nền thủy tạ trên đầm mênh mông. Phật nhập định phóng thần thông, Mười phương vũ trụ hiện trong lòng từ. Mây vàng tỏa khắp thái hư, Dệt nên bài kệ chân như nhiệm mầu. Khiến chú

Phép mầu khai ngộ - phần 2

Thơ   •   08.11.2021
2.750. Truyền lưu mối đạo tôn vinh đời đời. Lại nghe vua Phạm sang chơi, Cùng vua bốn nước rợp trời tàn xe. Lục sư cũng lại theo kề, Lắm bề cao ngạo lắm bề vọng ngôn. Thách Phật tỷ thí thần thông, Dựng nhà thiệt chiến, rước công chúng vào. Sáng sau P

Lão đánh cá và thần biển

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa dân xóm giang hà, Trên bờ sông liễu thướt tha mấy hàng. Một hôm chung tậu thuyền buôn, Tìm châu ngọc giữa đại dương bềnh bồng. Dẫn thuyền là lão ngư ông, Thạo nghề biển, lại giữ lòng giới trai. Thâm sâu giáo lý Như Lai, Vượt trên sóng bạc b

Chúa tiên cúng Phật

Thơ   •   08.11.2021
Một chiều lãng đãng mù sương, Vườn Kỳ thấp thoáng sao vương nội đào. Chim về xào xạc non cao, Tiếng chuông tịch mặc tan vào thâm u. Âm âm nhè nhẹ trầm từ, Ngọn triều dâng ngập thái hư tròn đầy. Thấm trong nội cỏ ngàn mây, Như trăng hiện tướng giục bà

Cá ba đầu

Thơ   •   08.11.2021
Một sáng sương mù vừa tan, Bên sông thấp thoáng y vàng như hoa. Giáo đoàn đức Phật vừa qua, Bước trầm lẫn tiếng chim ca nội ngoài. Áo tơ pha dải mây dài Như tia nắng mới vương đài sen hương. Thế tôn là ánh triêu dương, Sau ngài là một đông phương chó

Thiên tán ca - phần 2

Thơ   •   08.11.2021
PHÁP TÁNH Bước lên trí huệ siêu phàm, Cũng là đường xuất thế gian mê mờ. Chẳng còn đứng giữa đôi bờ Bâng khuâng trầm nguyệt, vật vờ phù vân. Một lòng ly huyễn lìa chân, Phá muôn thành quách phù trầm chiêm bao. Ung dung trong ánh bạch hào, Mười phương

Người con hiếu hạnh

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa Phật ở đất La, Trong vườn lục trúc nơi nhà cỏ tranh. Ngày ngày hóa độ trong thành Như chim Thu tự cõi thanh tịnh về. A-nan hiền giả hầu kề, 1.450.  Bước chân theo nở đóa lê đậm đà. Cổng Đông có một túp nhà, Ông thường thấy vợ chồng già

Rũ áo hồng trần

Thơ   •   08.11.2021
Lại tôi được thấy tỏ tường, Một thời Phật ngự trong vườn Cấp Cô, Dưới cây thái tử Kỳ-đà, Bốn mùa cây cỏ ra hoa cúng dường. Sáng kia Xá-vệ thành sương, Cửa ngoài nở mặt trời hường sáng soi. Phật mang y, bát rạng ngời Bước chân tịch mặc trong đời tham

Vẽ tranh hoá đạo

Thơ   •   08.11.2021
Nắng mai tươi sắc y vàng, Phật cùng hiền giả A-nan lên đường. Bầy chim rời cội lá sông, Bay theo cất giọng hát mừng chân như. Tiếng nào lạnh giữa tâm hư, Lòng hoa hồ cũng trầm tư diệu vời. Thành xa một giải chân trời, Cờ pha mây đỏ ủn hơi vọng đài. S

Nhân quả chẳng dời

Thơ   •   08.11.2021
Xưa, nơi ngàn biếc thông reo, Chim muôn giọng hót, bướm nhiều cánh tươi. Nhìn lên triền núi khơi vơi Cạnh dòng suối nhạc, gần trời mây non. Có nhà mái cỏ chon von, Cảnh người gà trống nuôi con ngậm ngùi. Bữa khoai bữa sắn lần hồi, Sao thưa nhớ bạn,

Hoa đơm hố lửa

Thơ   •   08.11.2021
Bạch Thầy: một kiếp xưa kia, Lê Thiên vua cõi Phù-đề châu Diêm Hạ sinh thái tử ngoan hiền Muôn muôn cõi dậy Lê Kiền danh thơm. Thiên năng trí tuệ phi thường, Riêng nơi động núi hoa vườn tĩnh tâm. Lòng ưa chính pháp cao thâm, Thường đi khắp nước suy

Tiền thân của vị vua trời

Thơ   •   08.11.2021
Thôn xưa, hoa nở rực đường, Sớm mai trời biếc sương vương dặm dài. Lá xanh như vạn mây đài, Đựng muôn hồng ngọc tỏa soi diệu kỳ. Chân trời mây lẫn cò đi, Cánh như lụa uốn xanh rì thảm tơ. Sóng xa vọng tiếng đò đưa, Gió thơm từ núi mai mơ thoảng về. B

Giữa đài mây toả

Thơ   •   08.11.2021
Rằng xưa có một vua hiền, Trần-lan-ba, ấy là tên họ nhà. Ngài trị châu Diêm-phù-đề, Khắp muôn cõi nước theo về cậy trông. Vương phi trăm tía ngàn hồng; Đại thần, một vạn quan trông nước trời. Thái bình an lạc nơi nơi, Mưa hòa, gió thuận, lòng người h

Con chim soi nước

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa trong ấp bạch mai, Chủ nhân có một trang đài tiểu thư. Cẩm Hồng nàng độ đào tơ, Lầu riêng khép nguyệt nhụy vừa hương bay. Khi ra khiến bướm vờn say, Khi vào khiến cả cỏ cây ngẩn lòng. Tơ duyên đã ướm thôn trong, Cùng chàng họ Bạch cũng dòng

Phép mầu khai ngộ - phần 4

Thơ   •   08.11.2021
3.300. Đức vua cùng với quần thần quản chi. Có hôm trong buổi triều nghi, Ngài khuyên văn võ hướng về đạo chân. Trị người cốt dẹp mê sân, Tuyên dương chánh pháp, tự thân hành trì. Diệt an mầm cội tham si, Nước dù muôn cõi khác chi một nhà. Ngoài hiê

Hạnh nguyện

Thơ   •   08.11.2021
Nhớ xưa khi đấng Pháp vương Ở Kỳ-xà-quật núi sương ngút trời. Gặp phen thời tiết đổi dời, Phật vừa thọ bịnh, cho mời vị lang. Thầy ngụ trong Cúc Mai trang, Bên dòng sông nhỏ buông hàng liễu dương. Vợ chồng nổi tiếng y vương, Cứu người tật bệnh tai ươ

Nước vua Phạm Thiên

Thơ   •   08.11.2021
Một hôm bên La-duyệt thành, Nơi vườn mai trúc đôi cành hoa bay. A-nan ngồi dưới cội cây, Trên tòa đá trắng sớm ngày sương vương. Bỗng đâu gió thoảng trầm hương, Ngài nhìn đôi bướm cánh hường ngất ngây. Nghĩ rằng hoa để thơm cây, Khác gì Phật hiện cõ

Con rắn cúng ngọc

Thơ   •   08.11.2021
Thế tôn nhìn ngắm mây bay Sớm qua núi biếc, chiều này sông lam. Ngài truyền hiền giả A-nan Bảo cho đại chúng khóa an cư là: “Như sông gợn bóng mây qua, Như non bát ngát đường hoa vân trình, Trầm tư khai mở trí mình, Từ bi hóa độ chúng sinh mọi loài.

Năm trăm người mù

Thơ   •   08.11.2021
Một thời đức Phật hóa duyên, Bước chân giác ngộ miền miền kính tôn. Dấu đi nở một sen hương, Mỗi lời dựng một thái dương lòng người. Dù nơi thành bãi chân trời, Đâu đâu cũng thấm nhuần lời trí bi. Một hôm có bọn mù kia, Năm trăm người ngụ Xá-ly ngoạ

Trồng đào cúng Phật

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa nơi Xá-vệ thành, Có nhà giàu nọ phúc lành dày lâu. Thường hay giúp kẻ cơ cầu, Khiến cho giải oán vơi sầu nhiều nơi. Cho nên phước báo tuyệt vời, Sinh được một trẻ khác đời xưa nay. Vừa ra đã biết hỏi ngay: ”Cha ơi, Phật vẫn trụ đời phải chă

Luyện kiếm độ đời

Thơ   •   08.11.2021
Thời xưa ở trại phù vân, Có giàn thiên lý thơm ngần đơm hoa. Bốn mùa thu lại xuân qua, Chim về ăn trái quanh nhà hồng mai. Chủ nhân sinh được một trai, Trong ngày sương kết thành đài hoa rơi. Lại thêm mấy cánh hạc trời, Múa kêu đôi tiếng tuyệt vời rồ

Tìm duyên giải thoát

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa có đền Thùy Dương Ven sông, sớm tối khói hương phụng thờ, Bốn mùa chim tụ mây đưa, Hoa dâng nắng sớm, lau thưa khói chiều. Lại, qua, xe ngựa dập dìu, Ai không hiến lễ ít nhiều hoa hương. Một hôm có khách thập phương, Là quan tể tướng thành v

Thiên tán ca - phần 1

Thơ   •   08.11.2021
PHÁP ÂM Lời vàng dậy đỉnh non xưa, Ngàn năm truyền đến bây giờ còn tươi. Còn vang vọng trái tim người, Tạo nên sức sống nơi nơi từ hòa. Như chuông thần gợn dư ba, Lay cơn mưa trải Ta-bà xanh xao. Như hương xuân giục bông đào, Càng dầy sương tuyết cà

Vi Diệu Tỳ-khiêu-ni - phần 1

Thơ   •   08.11.2021
Một thời Phật trụ nơi đây, Như mưa xuân đượm cỏ cây đồng đều. Người người theo đạo cao siêu, Khác chi cây cỏ kết nhiều trái thơm. Một lòng như pháp y nương, Mỗi người là một đạo trường trí bi. Trong thành Xá-vệ nước kia, Có ngàn thiếu nữ quy y Phậ

Thắng lòng tham dục

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa trong xóm Trầm Hương, Từng đôi cò đậu trên đường tre xanh. Chân non suối lụa viền quanh Nhịp cầu trúc nhỏ uốn ngành kiêu sa. Là nơi trang trại cúc hoa Của một dật sĩ khề khà thu đông. Ngày ngày trồng cải ươm bông Hoặc chôn mấy hũ rượu hồng đ

Xuống biến tìm Kinh - phần 3

Thơ   •   08.11.2021
(tiếp theo phần 2) Ngục sầu chẳng ngõ mà tan, Dấu chân là cõi Niết-bàn tự tâm. Độ đời đại nguyện vừa xong, Hạc vàng lại cất cánh bồng suối mây. Bốn vị long vương biển này Hóa ra một chiếc võng đầy trăng sao Đưa Đại Thì đến rừng nào, Là muôn h

Chim tiên cầu đạo

Thơ   •   08.11.2021
Lại thưa cũng ở châu Diêm, Thuở xa xưa có vua hiền Tạ Thi. Núi sông nghìn cõi quy về, Triều đình, vương quốc Bạt-đề cậy oai. Lúa ngô xanh ngát chân trời, Miền miền an lạc, người người âu ca. Ơn vua thắm cỏ tươi hoa, Dù nơi hải giác thiên nha cũng từ

Một lòng trợ đạo - phần 1

Thơ   •   08.11.2021
Nhớ xưa vùng ngát hương cau, Nơi dinh cơ bậc sang giàu vô song. Là ngài Tu-đạt chính trung, Phò vua giúp nước cường hùng một phương. Ngài thường trải rộng lòng thương, Giúp người cô độc vất vương bụi bờ. Lại dành riêng cảnh nên thơ, Cho ai đau ốm nươ

Sạch, nhơ cũng một lòng này

Thơ   •   08.11.2021
Chuyện xưa tại xóm Bình Đông, Gần thành Xá-vệ có đồng nho tươi. Là nhà hào phú đắc thời, Cậy quyền ức hiếp bao người cực thay. Muộn mằn vợ mới mang thai, 5.300.  Tưởng là quý tử, mừng vui đợi chờ. Nào hay khi trẻ sinh ra, Không tai, không mắt xấ

Bố thí mắt

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa, trong một rừng cây Bên thành Xá-vệ, dưới mây phớt hồng. Chim vi vút hót trong sương, Hoa man mác nở bên đường mát tươi. Hương bay mấy dặm tơ trời, Nhà tranh đôi nếp thoảng hơi tịnh trầm. Tiếng vàng giữa chốn tuyền lâm, Như xuân suối chảy nh

Ngọc nở thành sen

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa, một sớm hồng pha Áo bầy thôn nữ tỉa hoa ngoại thành. Truyền nhau tin miệng loan nhanh Rằng có một trẻ vừa sanh tuyệt vời. Trang nghiêm tướng mạo khác đời, Lòng tay như ngọc tỏa ngời hào quang. Ai nghe chẳng ghé mai trang, Đòi xem tận mắt rõ

Một lòng trợ đạo - phần 3

Thơ   •   08.11.2021
Thân cây thành cán xuyên vào nghiêng che. Hai lần pháp bị phá đi, Thấy lo, ngoại đạo thầm thì bàn quanh. Cử ra một gã áo xanh, Khoa tay niệm chú phi hành cưỡi mây. Tàn đào thành lưới bủa vây, Tên kia nhảy xuống mặt mày xám tro. Lại người nổi trận gió

Bắc cầu dâng Phật

Thơ   •   08.11.2021
Rằng xưa có một nhà kia, Bên bờ suối liễu bốn bề tùng reo. Mây bay nườm nượp sớm chiều, Tiếng chim ăn trái buông đều nhạc rơi. Ngày kia sinh hạ một trai, Sương thành hoa gấm bay lơi xuống thềm. Hương dâng ngát thoảng quanh miền, Nhân đây mới đặt Hoa

Vì đức quên thân

Thơ   •   08.11.2021
Thời xưa tinh xá Ni-câu, Lưng non sương tỏa nhịp cầu treo mây. Suối cao tung dải tơ bay, Sớm mai hồng đượm, cuối ngày vàng pha. Đầu non tùng bách reo ca, Sườn mây biếc tụ quanh nhà cỏ thơm. Chim kêu lau nội hoa cồn, Tiếng tan như giục suối dồn âm tha

Vi Diệu Tỳ-khiêu-ni - phần 2

Thơ   •   08.11.2021
8.050.  Mụ ra tỉnh đó, dám ngần ngại chi. Nơi đây xe ngựa bốn bề, Đưa nàng vào một nhà kia lạ lùng. Mụ thầm thì chuyện buồng trong, Rồi ra bảo “hãy nén lòng ở đây. Tôi đi lo giúp việc ngay, Người quyền quý tại chốn này thiếu chi.” Dứt lời mụ vộ

Năm trăm người nghèo

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa trong rừng mơ xanh, Có chim tụng trái trên cành thu hoa. Là vườn thái tử Kỳ-đà Cúng dường đức Phật đôi nhà cỏ thơm. Mây từ vân tập bốn phương, Khói hồ gợn tiếng trầm chuông gió chiều. Từ lâu có bọn dân nghèo, Năm trăm người vẫn hầu theo Phậ

Áo rách lòng vàng

Thơ   •   08.11.2021
Một đêm Phật chiếu quang minh, Nghìn trùng mây kết thủy tinh điện đài. Hiện chân tướng khắp muôn loài, Trong hồ sen trắng cõi ngoài vô biên. Nước hồ là cõi đại thiên, Chúng sinh hiện đóa bạch liên trùng trùng. Đóa thì vươn ngát hư không, Đóa thì vừa

Đức vua và con voi

Thơ   •   08.11.2021
Nhớ xưa, ngày đức Như Lai Bước vân du tới vườn mai trổ hồng. Có hồ sen nước búp trong, Đáy in xanh thẳm hàng thông vươn mình. Đôi gian nhà đất mái tranh, Bên cầu tre uốn qua ghềnh suối thơ. Tin lành mới được nghe qua, Quốc vương Xá-vệ liền ra đạo trư

Cơ duyên

Thơ   •   08.11.2021
Khơi trầm thơm tụng kinh Hiền, Núi Đông thoát hiện một viền gương nga. Vườn nhài đơm trắng ngàn hoa, Tầm hương chim cũng la đà bay sang. Nến rơi lã chã giọt vàng, Trang kinh lấp lánh đôi hàng sao in. Gió lay tờ nguyệt im lìm, Mỗi dòng chữ mở cánh ch

Nàng Vân Anh

Thơ   •   08.11.2021
Xưa, miền núi đó đẹp vui Bên sông uốn khúc in trời như tranh. Có người trưởng lão hiền lành Dựng nhà bãi núi, vườn xanh bốn mùa. Ngày vui xới đất trồng hoa, Vuốt râu cười giữa Ta-bà khói sương. Khi trà dưới rặng liễu dương, Khi rong thuyền rượu dõi đ

Người mẹ từ hoà

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa, ông Lê Kỳ Di, Triều Ba-tư-nặc là bề tôi trung. Có bảy trai quý nối dòng, Sáu anh sớm đã đào hồng đẹp đôi. Còn em thứ bảy là người Uyên thâm lý đạo tột vời tài hoa. Lão quan nghĩ tuổi đã già, Muốn cho con cái thành gia đủ đầy. Nhưng tìm dâ

Phụng Đô - phần 2

Thơ   •   08.11.2021
7.100.  Chợt buồn cá chậu chim lồng quẩn quanh. Ngắm trời bát ngát trăng xanh, Chim đơn tung cánh vượt thành hoa mây. Chim ơi biển Bắc non Tây, Còn ta chật hẹp tháng ngày công danh. Chim ơi đồng tía non xanh, Còn ta quanh quất trong thành chiêm

Phụng Đô - phần 1

Thơ   •   08.11.2021
Xưa, nơi xóm trúc thôn đông Có nhà vườn rộng cây trồng tốt tươi. Lúa ngô xanh một nương dài, Nối dòng hiền đức, sinh người khôi ngô. Ba trai hẳn vững cơ đồ, Lại riêng chàng út: Phụng Đô biệt tài. Đã thường cần mẫn hơn ai, Dâu xanh tốt lá, lúa dài trĩ

Thay đổi dung hoa

Thơ   •   08.11.2021
Ngày xưa, trong một vườn hương, Mái lầu trời lợp, nẻo đường mây sa. Điện son gác tía đôi tòa, Là nơi công chúa xấu xa lạ đời. Vừa trông ai chẳng rụng rời, 1.500. Trần gian nào thể có người dị hơn. Tên nàng vua đặt Kim Cương, Riêng xanh ngại liễu, riê

Giếng mắt rồng

Thơ   •   08.11.2021
Một chiều mây ửng vườn này, Hoàng hôn nhuộm cánh cò bay chập chờn. Bướm theo mấy luống hoa vờn, Đồi thông xa vọng tiếng đờn nao nao. Bỗng đâu dưới ngõ hoa đào, Mây năm sắc quyện lối vào nhụy hương. Hào quang sáng rực non sương, Như đèn bảy báu dị thư