Xuống biến tìm Kinh - phần 2
(tiếp theo phần 1) Ở ăn sao được công bình đó đây. Bao nhiêu chuyện tích xưa nay Đều thành gương sáng đắp xây nước nhà. Soạn xong Thí mới xuất gia, Dựng am cỏ, rũ trần sa, tu hành. Trầm tư phá mộng huyễn trần, Đời đời giả tướng một lần tan mâ
Nội dung bài thơ: Xuống biến tìm Kinh - phần 2
(tiếp theo phần 1)
Ở ăn sao được công bình đó đây.
Bao nhiêu chuyện tích xưa nay
Đều thành gương sáng đắp xây nước nhà.
Soạn xong Thí mới xuất gia,
Dựng am cỏ, rũ trần sa, tu hành.
Trầm tư phá mộng huyễn trần,
Đời đời giả tướng một lần tan mây.
Thế rồi đi khắp đó đây,
Tóc xanh nhuốm bụi áo mây nhạt màu.
Thênh thang cánh hạc về đâu,
Bước chân vô ngã vô cầu ngại chi.
Cõi đời còn nặng tham si,
Cứu đời ta có, ước gì ngàn tay.
Cầm bằng chuộc tội cõi này,
Nguyện vào địa ngục đọa đày thiên thu.
Một chiều chàng đứng trầm tư,
9.500. Trùng dương vang mãi tiếng ru muộn phiền.
Chợt người tinh tấn bước lên,
Nghĩ rằng chân cứng đá mềm mới hay.
Nếu như cõi thế gian này,
Chẳng mê vọng ấy sao dầy trí bi.
Nếu ta chuyển được tham si
Thì vào đáy biển khác gì đường mây.
Nguyện xong đáy nước hiện bày
Rõ ràng một cõi cỏ cây nhiệm mầu.
Trùng trùng ngọc quách vàng lâu,
Lưng non mã não trân châu chói lòa.
Lại thêm ao ngát liên hoa,
Mỗi đài ẩn chứa một tòa diệu kinh.
Sóng dâng bọt đến bên mình,
Kết thành hoa báu dưới chân người lành.
Đại Thí đi đến bên thành,
Ác trùng thủy quái vây quanh bước ngài
Hỏi rằng “đến kiếm chi đây?
Lấy gì để vượt cửa này cho qua?”
Ngài đáp “ta có lòng ta,
Yêu thương muôn loại trong nhà trầm luân.
Có mười phương lớn làm thân,
Đi tìm thuốc chữa tham sân bệnh dầy.
Giờ ta tìm xuống thành đây,
Thử tìm diệu pháp khai bày nhân thiên.”
Ác trùng thủy quái quì bên
Reo to: “hơn hẳn thánh hiền xưa nay.
Chúng con trấn giữ cửa này,
Do tham sân nghiệp sâu dầy hiện ra.
Giờ xin ngài tự bước qua,
Chỉ là ảo ảnh sương sa mịt mù.”
Thí dạy: “khắp cõi Diêm-phù
Cũng từ nghiệp thức thiên thu hiện bày.
Chúng sinh mười cõi đất này
Khác gì sóng nổi sương bay vật vờ.
Tụ tan như đám mây mờ,
Một nhân ái dục đôi bờ diệt sinh.
Mê thì sóng nổi mông mênh,
Ngộ rồi muôn cõi một hình vóc không.
Bao la hiện thể tâm đồng,
Dù cho hạt cải dù bông tuyết đào.
Cũng từ tâm cõi nhiệm mầu,
Khởi duyên như nước qua cầu nổi trôi.”
Nghe xong thành quách sáng ngời,
Nào là thủy quái nào trời hồng vân
Tan đi như bóng vi trần,
Chỉ còn ánh sáng ngọc thần tỏa soi.
Đại Thí nhặt ngọc cầm tay,
Trùng dương như một cõi mây chuyển dời.
Thung dung ngài bước dạo chơi,
9.550. Dưới lòng bể cả nơi nơi đón chào.
Lại xa xa hiện lầu cao,
Có rừng trái đỏ có hào sen hương.
Có thành thất bảo kim cương,
Sáng soi chiếu khắp bốn phương ngời ngời.
Đại Thí lại tìm tới nơi,
Bao nhiêu quỉ sứ vây người giương tên.
Thành đao lũy kiếm vững bền,
Tên bay giáo phóng dưới trên vụt vù.
Đại Thí vừa niệm nam-mô,
Cung tên thấp thoáng mơ hồ rụng bên.
Hóa ra muôn cánh bạch liên
Cúng dường trải xuống đất liền ngọc châu.
Bao nhiêu quỉ oán ma sầu
Vây quanh thánh chúa cúi đầu quy y.
Xin người đại trí đại bi
Độ cho tỉnh thức mê si nghiệp mình.
Đại Thí vừa qua cửa thành,
Một con rùa biển hóa mình xe mây.
Tàn vàng lọng gấm đủ đầy
Rước qua mấy dặm thành xây ngọc vàng.
Đến tòa bảo tháp kim cang,
Nóc cao thần bút giữa hàng hoa dương.
Ngõ vào cổng khép sóng hường,
Cát xanh biêng biếc trải đường cheo leo.
Đại hồng chuông trái rêu treo,
Thêm đôi phụng múa trên đèo hoàng hoa.
Cửa trong có tiếng vọng ra
Rằng đây chính pháp riêng tòa tạng kinh.
Cửa vào là nghiệp hóa sinh,
Đố ai mở được bồng bềnh cánh mây?
Xin người mau trả lời ngay
Nếu không tất hẳn đường này chẳng qua.
“Cái gì là pháp là ta?
Cái gì khiến một cánh hoa rụng rời?
Cái gì là ý là lời?
Cái gì khiến hạt mưa rơi bàng hoàng?”
Ngài rằng “ngã, pháp đôi đàng,
Chẳng qua lớp lớp sương vàng hóa sinh.
Cỏ hoa một cõi giả hình,
Vị gì mà để vọng tình tiếc thương.
Ý lời như áng mây vương,
Cho dù trăm nẻo trăm đường ngại chi.
Bao giờ dứt sạch tham si,
Giọt mưa cũng thể một vì sao rơi.”
Đáp xong lầu các rạng ngời,
Tan như một đám sương rời sớm mai.
Giữa lòng cát hiện con trai
Ôm nghiêng hạt ngọc như đài phù vân.
Đại Thí cất ngọc vào mình,
9.600. Bước chân dạo khắp u minh biển dầy.
Lần theo một đàn cá bay,
Lửng lơ nổi mở đường mây dẫn người.
Thung dung chàng đến một nơi
Có hang sâu thẳm tỏa ngời hào quang.
Bọt vần uốn mấy bực thang,
Dưới lòng vực hiện xóm làng cỏ hoa.
Nào là lầu các nguy nga,
Sóng xô thành nhạc rêu sa thành tàn.
Nào là sân bích vườn lam,
Bãi hoa nụ thắm đồi cam trái hồng.
Vân du Thí lại sanh lòng,
Đã đi đi hết dưới lòng biển khơi.
Tụt thang bọt nước tới nơi,
Thôn kia đã hiện tơi bời xương khô.
Nào là quỉ hú mơ hồ,
Nào là ma khóc lạc mồ tỉ tê.
Hôi tanh máu mủ gớm ghê,
Chung quanh lại sủi bốn bề nước đen.
Thương thay bao cuộc đua chen,
Nắm xương phơi trắng là phen cuối cùng.
Càng trông càng thấy não lòng,
Bùi ngùi nhỏ nước mắt trong, hai hàng.
Giọt vừa sa, bãi xương tàn,
Tan đi hóa đám bụi vàng đùn cao.
Dưới trên như lỗ huyệt đào,
Dù trên hóa gió ra vào được đâu.
Tưởng rằng lấp ngọc vùi châu,
Cát từ từ đổ trên đầu bao la.
Thí ngồi quán tưởng trần sa,
Hòa cùng cát bụi một tòa thịt xương.
Cũng là tâm thể chân thường,
Hợp tan như áng mây vương sớm chiều.
Tâm thần bay bổng phiêu diêu,
Lâng lâng như một cánh diều lưng mây.
Thoáng như cát chạm bên người,
Lại như mai hạnh rụng rơi đầy mình.
Lòng thương trải khắp mông mênh,
Nghe thân thể nổi bồng bềnh đâu xa.
Giờ lâu ngài xả thiền-na,
Dưới lòng hang đã vượt ra lúc nào.
Dặm xa thoáng gợn mây đào,
Vờn trên ngọn núi mù cao ngút trời.
Nào là hang động ùn hơi,
Đèn ma lửa quỉ nơi nơi chập chờn.
Tiếng người thét rợn từng cơn
Lẫn trong tiếng sóng oán hờn giá băng.
Thí liền chỉ đất nguyện rằng:
“Quyết vào địa ngục thắp trăng đại từ.
Mười phương tỏ cõi Chân như,
9.650. Tan cơn vọng nghiệp qua bờ mê tân.
Lòng người chưa cạn tham sân,
Vạc dầu còn lửa nung thân đời đời,
Ý còn điên đảo dối lời,
Lưỡi còn cưa xẻ tơi bời xương da.
Ngục sầu chẳng khép, khó ra.
Tự mình mình lại tìm nhà gai chông.
Đầy thân bảy hố lửa hồng,
Đeo thêm cùm kẹp là vòng nghiệp duyên.
Niết-bàn tám cửa thanh vân,
Xa thì muôn dặm mà gần tấc gang.
Thương thay sáu ngả bụi vàng,
Luân lưu kiếp kiếp con đàng vô minh.
Hỏi ai ai cứu được mình,
Tâm kia là đảo quang minh cậy nhờ.
Ngộ, mê chẳng cách đôi bờ,
Bừng con mắt dậy tan mơ giả hình.
Nguyện đau tâm bệnh chúng sinh,
Thân là cam lộ một bình lợi tha.
Nguyện yên sóng gió Ta-bà,
Chúng sinh vô lượng trần sa trở về.
Thệ lòng quyết bước chân đi,
Vừa vào địa ngục Thiết vi trùng trùng.
Núi xưa tỏa động ngọc hồng,
Vạc dầu chuyển hóa thành bông sen ngời.
Tiếng kêu thương hóa hương trời,
Kết thành sương báu quanh người đại bi.
Đức ngài chuyển ngục Thiết vi
Thành trời Tịnh độ lưu ly ngọc hồng.
Đau thương thành giải thoát trầm,
Mê si thành ánh trăng rằm tỏa soi.
Quỉ ma đổi tánh người trời,
Gông xiềng cùm kẹp thành hơi chiên đàn.
(mời xem tiếp ở phần 3)
Bài thơ Xuống biến tìm Kinh - phần 2 của tác giả Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long
Nghệ danh: Phạm Thiên Thư
Tên thật: Phạm Kim Long
Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Phạm Thiên Thư - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác