Phụng Đô - phần 2
7.100. Chợt buồn cá chậu chim lồng quẩn quanh. Ngắm trời bát ngát trăng xanh, Chim đơn tung cánh vượt thành hoa mây. Chim ơi biển Bắc non Tây, Còn ta chật hẹp tháng ngày công danh. Chim ơi đồng tía non xanh, Còn ta quanh quất trong thành chiêm
Nội dung bài thơ: Phụng Đô - phần 2
7.100. Chợt buồn cá chậu chim lồng quẩn quanh.
Ngắm trời bát ngát trăng xanh,
Chim đơn tung cánh vượt thành hoa mây.
Chim ơi biển Bắc non Tây,
Còn ta chật hẹp tháng ngày công danh.
Chim ơi đồng tía non xanh,
Còn ta quanh quất trong thành chiêm bao.
Chim ơi cồn hạnh nội đào,
Còn ta vương víu ra vào vợ con.
Đêm nay chim tới động non,
Vui trăng đầu bãi tiếng còn vọng sông.
Vó xuôi ngựa gõ trần hồng,
Theo giòng nước cuộn trăng không bến bờ.
Chí hồng lại giục lòng xưa,
Về phòng văn để bài thơ tạ tình.
Như chim xoải cánh lênh đênh,
Đường trăng vó giục bên dòng sông sa.
Rừng vàng trở áo thu hoa,
Lòng ơi đã rũ trần sa sạch ngần.
Chàng lên kiếm động non thần,
Lắng tâm phá dứt vọng trần thoát ra.
Lần hồi ngày lại ngày qua,
Hiên văn, lầu nhạc nhạt nhòa mây trôi.
Như tên vút khỏi vòm trời,
Riêng trăng bầu bạn bên người trầm tư.
Một đêm ngồi động rêu mờ,
Trông lên hoa rụng như mưa phía ngoài.
Chàng đi dạo dưới bờ mai,
Hỏi xuân thu có dạc dài đến hoa.
Nghĩ mình đã mấy năm qua,
Lẽ đầu ngồi để xương da rụng rời.
Nhớ xưa Xá-vệ có người
Rộng khai chính đạo rạng ngời trí bi.
Vậy còn lần lữa mà chi,
Tìm Thầy, giờ phải ra đi một lần.
Thế rồi quảy gói phù vân,
Đường trăng như gọi dấu chân ngút vời.
Chuyến này gặp được mới thôi,
Thử xem hư thực như lời đồn danh.
Qua bao sương ải mây thành,
7.150. Mùa xuân lại rộn trên cành tiếng chim.
Buổi kia ngừng trước non sim,
Hoa lay cánh biếc, non xanh lặng tờ.
Gặp người khoác tấm y tơ,
Trông quen tưởng đã bao giờ cố nhân.
Bỗng dưng như sạch bụi trần,
Lòng chàng bừng dậy mùa xuân diệu vời.
Từ đây ở lại bên Người,
Vọng tâm đã tuyệt ba đời chiêm bao.
Một đêm phóng ánh bạch hào,
Dù xa muôn dặm khác nào gần đây.
Thấy trên biển Bắc ùn mây,
Sóng nhô đầu bạc gió vây gầm gừ.
Một thuyền xoay trở ngất ngư,
Nhìn trong khoang chợt thoáng ngờ dáng ai.
Đúng rồi: người anh thứ hai,
Hẳn theo thuyền kiếm ngọc trai đảo nào.
Biển trùng vùn vụt sóng cao,
Phút giây sinh tử kẻ gào người la.
Chàng dùng khẩu mật truyền xa,
Bảo anh phải niệm Phật-đà ngay đi.
Nam-mô đức Phật từ bi,
Độ cho thoát khỏi cơn nguy khốn này.
Người anh phách lạc hồn bay,
Bỗng nghe lời nọ bên tai rõ ràng.
Mọi người chợt thấy hào quang,
Tâm kia chợt lại vững vàng như không.
Tiếng đâu như vẳng chuông đồng,
Người người quì niệm một lòng trang nghiêm.
Bỗng dưng gió lặng sóng yên,
Thuyền giương cánh lại xuôi miền cố hương.
Ai ai thấy chuyện lạ thường,
Lòng tin như khối kim cương tỏa ngời.
Mùa mưa lại đã đến rồi,
An cư ba tháng tùy nơi thuận tình.
Phụng Đô sửa áo ôm bình
Xin về quê cũ tự mình an cư.
Lại xin mở cửa thái hư,
Đem xuân lại nở hoa từ chốn quê.
Thế tôn ưng thuận cho về
Quê cha trồng cội Bồ-đề đền ơn.
Hạ vàng trở gót phong sương,
Kể từ biền biệt cố hương đến giờ.
Cùng anh viếng mộ cha xưa,
Rồi vui hỏi chuyện ngày qua biển trùng.
Trong lần hiểm nạn bão giông,
Niệm hồng danh Phật thoát vòng gian lao.
Người anh vội đáp: “lạ sao!
Cơn nguy chợt có bạch hào chiếu qua.
Tiếng ai khuyên niệm Phật-đà,
Làm theo, quả được trời hòa sóng yên.
Nhưng em xa cách trăm miền
Mà sao lại biết việc trên rõ ràng?...”
Phụng Đô liền tỏa hào quang,
Mười phương như nắm bụi vàng trên tay.
Rõ ràng biển Bắc thành Tây,
Rõ ràng cõi đó phương đây rành rành.
Bàng hoàng tâm trí hai anh,
Vội quì dưới cỏ tâm thành tỏ thưa:
“Tiễn em ngày đó nào ngờ
Trên đường cầu đạo gió mưa khôn ngừng.
Tưởng đâu bang núi động rừng,
Cánh chim vụt đã mấy từng mây cao.
Chợt giờ gặp lại mừng sao,
Thân em lại khoác y đào nghiêm trang.
Kể chi trong tỉnh ngoài làng,
Đức cao hẳn khắp nước đang mong chờ.
Hai anh phát nguyện từ xưa,
Trợ duyên chính pháp Phật thừa mở khai.
Giờ đây mong được cúng trai,
Để gieo nghiệp đức, vị lai cậy nhờ.
Xin em cung thỉnh Phật từ
Cùng Tăng thánh chúng về cho vùng này.
Ánh vàng soi chiếu nơi đây,
Khiến công đức thấm đủ đầy chúng sinh.”
Phụng Đô vui giúp việc lành,
Bên hoa trầm ngát hóa thành gió bay.
Lưng trời cuộn bóng rồng mây
Đến thành Xá-vệ lựa ngày thỉnh trai.
Vui lòng, đức Phật Như Lai
Hứa cùng đệ tử rằng Ngài sẽ qua.
Vội về nghi thiết trầm hoa,
Dựng đài pháp bảo một nhà tịnh thanh.
Tin vui lan khắp tỉnh thành:
Tuần sau Phật hóa duyên lành nơi đây.
Thôn Nam cho đến đồi Tây,
Người người sửa soạn đợi ngày cung nghinh.
Những nghề săn lưới sát sinh,
Dân đều vứt bỏ, thêm tình yêu thương.
Đến ngày trai thỉnh cúng dường,
Mây đâu tụ kết tán hường thỉnh không.
Hoa đâu nở trắng nội đồng,
Chim vui cùng với non bồng gió reo.
Trên mây một vị Tỳ-kheo
Kiết già phu tọa y điều quang minh.
Là thầy trực nhật: Tục Sinh
Xuống đây sửa soạn lễ đình trầm hoa.
Lại thêm mười sáu lạc đà
Chúng sa-di xuống bên nhà khói hương.
Biến ra rừng núi hoa sương,
7.250. Đồi cao trái đỏ hồ vương khói dài.
Bên đường hoa trải hàng hai,
Động trầm chim họp tụng vui kinh Hiền.
Thêm năm La-hán cao niên
Hóa thành rồng cuộn kết nên một tòa.
Phun thành bốn mối tuôn ra
Mây hồng tỏa chiếu bao la giữa trời.
Kiều-trần-như, đó năm người
Thần thông vô ngại tỏa ngời trí minh.
Ma-ha Ca-diếp vân trình,
Một nhà giảng đọc tự mình biến ra.
Cột mây, mái hạc, thềm hoa,
Vi vu gió thoảng trên tòa nhạc bay.
Rồi Xá-lợi-phất qua đây,
Tướng oai sư tử kết đài trân châu.
Rung lên sấm chớp năm màu,
Tự thinh không xuống bên lầu nguy nga.
Mục-kiền-liên cũng bay qua
Hóa thành voi trắng sáu ngà lớn sao.
Mỗi đầu ngà, hiện một ao,
Mỗi ao lại nở sen đào bảy bông.
Đài sen hiện sắc cầu vồng,
Trên cầu ngọc nữ trải hồng cánh tươi.
Đầu voi mây kết bảy đài,
Mục-kiền-liên hóa thân ngời hào quang.
A-na-luật hiện hồ vàng,
Bảy hồ thất bảo rỡ ràng sắc hương.
Đài hoa óng ánh kim cương,
Bóng A-na-luật y hường sắc bay.
Nhật quang cầm ở trên tay
Phóng ra bốn hướng trời đầy vàng soi.
Lại Nan-đà đến lưng trời,
Ngựa xe, tàn tán diệu vời trước sau.
Vó nào nhạc chuyển mưa mau,
Ánh lên muôn sắc một bầu trời mây.
Hiện thêm bảy núi ngọc đầy,
Có đường đá trắng kết dây hoa vàng.
Ngài Tu-bồ-đề trong hang
Lưu ly mã não hàng hàng suối tuôn.
Rồi ngàn thân của La vương,
Kết thành tháp cẩn kim cương tỏa ngời.
Đó là thần lực tuyệt vời,
Văn-đà Ni tử giữa trời hóa ra.
Tràng tràng anh lạc khánh hoa,
Vi vu gió thổi nhạc hòa du dương.
Và đây một đám mây hương,
Ngàn con hạc kết lọng hường bay đi.
Thần thông ngài Ưu-ba-ly
Hóa ra lọng gấm diệu kỳ đó thôi.
Nhạn tha khánh ngọc lưng trời,
7.300. Thoảng mưa nhã nhạc nơi nơi thái hòa.
Với nhiều sa-môn hóa ra
Lưu ly biêng biếc đường qua ngút ngàn.
Lề đá thất bảo chói chang,
Đôi bờ dương liễu dịu dàng lối mây.
Hàng hàng Tăng chúng qua đây,
Nghiêm trang y pháp dáng đầy thung dung.
Đại Ninh hiện giữa hư không,
Bảy từng cây báu trùng trùng trái hoa.
Dưới cây hiện bảy ngọc tòa,
Đại Ninh ngồi giữa thân đà sáng tươi.
Mười phương mây nổi hoa dời,
Hào quang nhật nguyệt cõi trời tỏa buông.
Lại tòa ngan ngát khói hương,
Tân-lư trầm mặc dáng thường uy nghi.
Nguyệt quang đeo cổ, diệu kỳ,
Phóng soi ánh sáng muôn vì sao sa.
Vừa khi ấy, La-hầu-la
Trên vòm mây nổi như tòa non sương.
Oai nghi vẻ đẹp phi thường,
Hóa thân làm Chuyển luân vương giữa trời.
Năm trăm đệ tử đến nơi,
Bày ra cõi giới diệu vời phương mây.
Bỗng dưng ánh sáng vàng soi,
Đó là biến tướng Phật dời tòa sen.
Rõ ràng như thái dương lên,
Đất trời chuyển động sáu lần nghiêm trang.
Hai bên Đế Thích, Phạm thiên,
Cùng là tiên giới khắp miền phiêu diêu.
Lối sang mây trải vóc điều,
A-nan cùng đại chúng theo Phật từ.
Như bầy hạc giữa thái hư,
Đại phương mây nổi chân như một viền.
Dưới thành dân dã trông lên,
Phật cùng đại chúng hóa duyên miền nào.
Pháp y phơi phới tầng cao,
Khiến người sinh dạ ước ao tín thành.
Khỏi vòng tâm bệnh nổi nênh,
Mừng vui theo hướng cha lành tiến mau.
Như cuồn cuộn sóng theo nhau,
Bao loài khác cũng tự đâu kéo về
Kính nghe diệu pháp Bồ-đề,
Chân tâm mở lối, si mê phá vòng.
Thế tôn hiện giữa hư không,
Bên đường hoa nổi bềnh bồng áo bay.
Rồi vào ngự giữa đàn trai,
Bỗng dưng hóa hiện cõi trời như nhiên.
Một phương tịnh độ hiện tiền,
Thế gian được thấy, ưu phiền sạch tan.
Bấy giờ hiền giả A-nan
7.350. Chắp tay cung kính hỏi han sự này.
Phật rằng “trong cõi trần đây,
Ngài Ca-diếp đã ra tay một thời.
Từ tâm ngài cứu độ đời,
Khiến cho nhân loại được vơi biển sầu.
Trong khi có một nhà giàu
Ở vùng xa nọ, tâm cầu tiến tu.
Phúc gây, mong kiếp sau nhờ,
Lưng non dựng một ngôi chùa nghiêm trang.
Chép kinh, tạc tượng, thỉnh Tăng,
Mở trường tu học, dựng đàn pháp khai.
Đạo mầu mong thấm nơi nơi,
Đến khi ông mãn kiếp người, hóa sinh
Làm vua trên cõi thiên đình,
Thành vàng điện ngọc quang minh chói lòa.
Cháu con hưởng đức ông cha,
Khuyên nhau tu tiến thêm ra phúc lành.
Khắp nơi châu, quận, tỉnh, thành
Kính yêu dòng họ công danh rỡ ràng.
Con trai ông có một chàng
Thay cha hộ pháp cúng dàng chư Tăng.
Một lòng ngăn ác phù chân,
Soi trăng tu học chuyên cần sớm khuya.
Dù không thế phát quy y,
Chân tu giữa cõi bộn bề tanh hôi.
Truyền lưu chính pháp trụ đời
Chẳng tham danh lợi nổi trôi bọt bèo.
Thuyền to vững một tay chèo,
Hộ trì Tam bảo y theo pháp hiền.
Nguyện không thành Phật thành tiên,
Chỉ làm Bồ-tát hóa duyên cứu đời.
Truyền đăng trí tuệ người người,
Phát tâm cứu thoát muôn loài khốn nguy.
Thực người đại trí đại bi,
Như non ngọc giữa tham si chiếu ngời.
Trải qua bao kiếp luân hồi,
Một lòng hộ pháp sáng soi đạo hiền.
Bây giờ gặp lại nhân duyên,
Như chim lớn vượt miền miền trăng sao.
Rong chơi một giấc mộng đào,
Chí kim cương vững ra vào ngại chi.
Tâm như cửa ngọc lưu ly,
Dấu chân đại trí đại bi rõ ràng.
Hôm nay lễ thỉnh trai Tăng,
Cùng là Bồ-tát vân đằng qua đây
Cúng dường hiện mấy đài mây,
Tiền thân đền chút duyên may gọi là.
Dù vô lượng cõi trần sa,
Cũng do hóa hiện tâm ra trùng trùng.”
Thuyết xong Phật hiện thần thông,
7.400. Giữa trời vọng tiếng chuông đồng âm ba.
Khiến trời cao rụng mưa hoa,
Người người tỉnh thức nhà nhà an vui.
Khiến đồng lúa trổ đòng tươi,
Khiến trùng thú bỏ luân hồi hóa sinh.
Bài thơ Phụng Đô - phần 2 của tác giả Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long
Nghệ danh: Phạm Thiên Thư
Tên thật: Phạm Kim Long
Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Phạm Thiên Thư - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác