Vi Diệu Tỳ-khiêu-ni - phần 2
8.050. Mụ ra tỉnh đó, dám ngần ngại chi. Nơi đây xe ngựa bốn bề, Đưa nàng vào một nhà kia lạ lùng. Mụ thầm thì chuyện buồng trong, Rồi ra bảo “hãy nén lòng ở đây. Tôi đi lo giúp việc ngay, Người quyền quý tại chốn này thiếu chi.” Dứt lời mụ vộ
Nội dung bài thơ: Vi Diệu Tỳ-khiêu-ni - phần 2
8.050. Mụ ra tỉnh đó, dám ngần ngại chi.
Nơi đây xe ngựa bốn bề,
Đưa nàng vào một nhà kia lạ lùng.
Mụ thầm thì chuyện buồng trong,
Rồi ra bảo “hãy nén lòng ở đây.
Tôi đi lo giúp việc ngay,
Người quyền quý tại chốn này thiếu chi.”
Dứt lời mụ vội bỏ đi,
Nàng ngơ ngác đứng buồn tê giữa nhà.
Thấy liền mụ khác bước ra
Rằng “con vào nghỉ, rồi ta liệu bàn.
Nhà này thân thiết các quan,
Việc con dễ được nể nang, cậy nhờ.”
Nói rồi tay dắt nàng vô,
Lên lầu hoa gấm, cạnh hồ nước xinh:
“Con nên tắm rửa khoẻ mình,
Chiều nay quan lớn trong thành đến chơi,
Điều cần con phải làm tươi,
Nói năng lựa ý chiều người mới xong.”
Đã hơi nghi ngại trong lòng,
Nhìn quanh lầu vắng nhà không, đành chờ.
Chân mây thu hết nắng tà,
Tiếng cười nói chợt khắp nhà rộn vui.
Mụ đưa lên gác một người,
Nói thầm: “quan huyện đương thời đó con.
Bạc tiền như núi như non,
Việc ngài nhận giúp chẳng còn sợ đâu.”
Mụ ra khép trái cửa lầu,
Huyện quan ghé mặt, vuốt đầu lả lơi.
Giằng tay, nàng chạy ra ngoài,
Nhưng mụ nấp đó tức thời chặn ngay:
“Này, này, bảo thực cho hay,
Bán mi, mụ đó lấy ngay bạc nghìn.
Biết điều thì hãy chịu yên,
Vào hầu quan lớn khỏi phiền ruột ta.”
Mạnh tay mụ đẩy nàng vô,
Huyện quan như hổ đói vồ mồi ngon.
Kéo xô nàng ngã lên giường,
Nước này, đến nước liều còn đợi chi.
Vớ ngay bình sứ pha lê
Đập đầu hổ đói, đầm đìa máu chan.
Hắn vừa cất tiếng thét vang,
Mụ ào cửa tới, mấy nàng theo sau.
Thế là giữ cẳng nắm đầu,
Trận mưa đấm đạp nàng đau ngất hồi.
Ngừng tay, tưởng đã chết rồi,
Tối đêm chở xác vứt ngoài rừng xa.
Biết đâu còn tội đời hoa,
Bữa kia tỉnh lại: nằm nhà ai đây?
Bên giường, bà lão mừng thay,
8.100. Một tay bưng thuốc, một tay nâng đầu:
“Con đừng ngồi dậy, mà đau,
Để lão giúp đỡ cho mau lại người.”
Lão ông cũng về tới nơi,
Thấy nàng tỉnh hẳn mừng vui vô cùng.
Hôm kia đi củi trong rừng,
Gặp người nằm ngất bên vùng cỏ tươi,
Xem còn thoi thóp chút hơi,
Lại coi như bị trụy thai nguy nàn.
Cùng nhau khiêng vội về làng,
Đã qua mấy bữa thuốc thang tận tình.
Chừng nghe thấy chuyện Đoan Trinh,
Ông bà càng xét, dỗ dành bảo khuyên:
“Thôi, con cố nén lo phiền
Để mau bình phục mà tìm chốn xưa.”
Sụt sùi, nàng chắp tay thưa:
“Đời con có phúc mới là gặp đây,
Ơn như trời đất cao dày,
Con xin ghi tạc dạ này muôn thu…”
Cưu mang mấy chục ngày qua,
Thấy mình cứng cáp, nàng thưa xin về.
Để người trọn nghĩa phu thê,
Ông bà đưa tiễn, dẫu nghe buồn lòng.
Dò đường tìm lại bến sông,
Dân nơi xóm cũ vừa trông thấy nàng
Xúm quanh lộ vẻ xót thương,
Kể cho nghe chuyện lúc chàng về đây.
Nàng vừa rời bến mươi ngày,
Lo âu chàng vội đi ngay kiếm tìm.
Kẻ nào mưu tính đảo điên,
Lừa này để dẫn tới miền tỉnh xa!
Dẫu trời sắp vẻ phong ba,
Rong thuyền chàng vẫn vượt ra ngàn trùng.
Thế là đêm nổi bão giông,
Lật thuyền chìm vỡ giữa dòng trường giang.
Ngày sau xác nổi gần làng,
Vớt lên, dân xã chu toàn ma chay.
Lại nghe hồn lạc phách bay,
Bước đi thất thểu tới ngay mộ người.
Tàn đêm, cạnh nấm đất tươi,
Bỗng dưng nàng lại phá cười như ma.
Nhìn mây cuộn nỗi bao la,
Tưởng đang vẫy gọi nàng ra chân trời.
Chung quanh náo động tiếng người,
Giáo gươm va chạm, gió dời ngựa vang.
Lòng đau dựng cảnh chiến tràng,
Ngẩn ngơ đi khắp tỉnh, làng hát ca.
Con điên! ai cũng lánh xa,
Nàng trông thiên hạ hóa ra thú trùng.
Người thì bụng lửa mồm chông,
8.150. Mắt người là một dòng sông cuốn người.
Nghe trong tiếng nói tiếng cười,
Toàn là lửa độc ngạt trời hò reo.
Lê la nào biết sớm chiều,
Một hôm chợt thấy sói beo quanh mình.
Lại như thây chết yêu tinh,
Hoặc toàn xiềng xích ngục hình đeo mang.
Chợt đâu một ánh hào quang
Như bông sen tỏa vô vàn tía xanh.
Bao nhiêu quỉ sứ yêu tinh
Thoắt thay đổi, hóa nên hình người ta.
Trong khi thấp thoáng nẻo xa,
Hoành y rực rỡ sắc tà dương soi.
Rồi trang nghiêm, hiện một người
Đưa tay như nụ hoa tươi nhiệm mầu.
Lòng ai sạch oán tan sầu,
Tưởng vừa trong giấc ngủ lâu giật mình.
Áo người rực rỡ quang minh,
Dáng đi trầm mặc ôm bình ngọc vân.
Đoan Trinh vội bước theo chân
Người về tịnh xá Kỳ-hoàn nghiêm trang.
Chung quanh đệ tử hàng ngàn,
Thân như hồng ngọc, y vàng tịnh thanh.
Mây bay, chim rộn trên cành,
Xa xa suối liễu đôi nhành lơ thơ.
Tự nhiên có một sư cô
Hiền từ dắt đến bên hồ nước xinh
Bảo nàng tắm rửa thân mình,
Quy y Tam bảo, phúc lành xuất gia.
Thế rồi khép động thiền-na,
Đến hôm nghe Phật lại qua đạo trường.
Vội ra quì dưới đài hương,
Một vùng giải thoát, gió thơm diệu vời.
Nghe thân như hết bụi đời,
Nghe tâm như sạch mây trời mù che.
Trông xa bát ngát bồn bề:
Núi non hổ phách pha lê chói lòa.
Từng hơi thở nhẹ vào ra
Như dòng suối lặng dưới hoa trầm từ.
Xuôi về nghìn kiếp xa xưa,
Bao nhiêu vọng tướng bây giờ sạch trơn.
Chắp tay: “bạch đức Thế tôn,
Nhân duyên ngày trước lưu tồn đến nay.
Thân như móc sớm, chớp ngày,
Thỉnh xin đức Phật khai bày cho con.”
Trên đài giữa nét cười son,
Hào quang phóng tỏa muôn hòn núi cao.
Mở ra dường cõi chiêm bao,
Nàng xưa là vợ phú hào một thôn.
Hiếm hoi không được mụn con
8.200. Nên chồng mới chuốc hầu non một người.
Vào ra quấn quít vui cười,
Khiến ghen như thể lửa trời nấu nung.
Lại khi sinh trẻ đầu lòng,
Vợ chồng khắn khít, ẵm bồng luôn tay.
Quên ai khó nhọc bao ngày,
Cơ đồ sự nghiệp một tay gây dừng.
Giờ nhìn nước lã người dưng
An nhiên ngồi hưởng, sao đừng tiếc công!
Chẳng là không trả về không,
Uất ghen, tính chuyện kim đồng giấu đi.
Một chiều gặp bé trai kia
Nhởn nhơ dưới gốc hoa hoè rong chơi.
Kim dài giấu sẵn trên tay,
Trước sau chẳng một ai hay biết nào.
Thấy nàng lẳng lặng đi vào,
Bé kia bước thấp bước cao lại mừng.
Cầm kim luống những ngập ngừng,
Lệ đâu lại đọng rưng rưng mắt đầy.
Bao lần định lại ngừng tay,
Trẻ kia mắt ngó thơ ngây đâu ngờ.
Lòng ghen cùng với vò tơ,
Phân vân trăm nỗi, chần chờ mấy phương.
Tiếng ai gọi vọng sau tường,
Nghìn cơ còn lại một đường này thôi.
Nhớ xưa chồng vợ kề đôi,
Bây giờ lủi thủi ra người bàng quan.
Rồi khi đầu bạc thân tàn,
Họ vui con cháu vênh vang kể nào.
Hẳn dùng mắt, miệng như dao,
Bõ ngày phận nhỏ thăm chào, nể nang.
Công xưa khó nhọc, ai màng,
Gia tài này cũng chuyển sang, còn gì!
Nghĩ càng như hoảng, như mê,
Hại người, hơn chịu ngày kia hại mình.
Thế là nắm chặt chiếc đinh,
Giơ cao đóng xuống thân hình trẻ kia.
Đỉnh đầu máu đỏ đầm đìa,
Giơ tay bịt miệng nghe gì tiếng la.
Chiếc đinh đóng ngập vào da,
Máu tuông mà ngó nhạt nhòa thấy đâu.
Mắt trông quáng đủ sắc màu,
Lòng ghen chỉ có oán sầu ngụt sôi.
Mưu cơ đã sắp sẵn rồi,
Vứt thây xuống giếng, vội rời vườn hoang.
Áo quần tẩy sạch phi tang,
Cáo quan thì mất nghìn vàng là xuôi.
Buổi chiều tìm trẻ khắp nơi,
Vườn sau ruộng trước, tăm hơi nào còn.
Sau cùng vớt được xác con,
8.250. Nàng ôm khóc ngất từng cơn khác nào.
Gia nhân làng xóm xôn xao,
Quan trên là chỗ thân nào nghi ai.
Mưu gian che được mắt người,
Nhưng sao lọt khỏi mắt trời chí công.
Trải bao nhiêu kiếp bụi hồng,
Trả vay vay trả trong vòng trầm luân…”
Thuật xong câu chuyện quả, nhân,
Sư bà Vi Diệu ân cần thêm câu:
“May ta gặp được đạo mầu,
Dứt vòng nhân quả, oán sầu diệt tan.
Tội dù Bắc hải Nam san,
Kết nhau như áo tơ vàng mặc đây.
Đổi thay còn cũng tùy tay,
Hướng tâm quy Phật dứt ngay đó là.
Có thì muôn vật sinh ra,
Không thì muôn vật lại đà hoàn không.
Có không thì cũng tại lòng,
Đương nhiên lại bước trong vòng chiêm bao.
Cõi đời hoa đốm lao xao,
Tiến tu lòng chẳng nệ vào có không.
Nguyện Bồ-tát độ trần hồng,
Cho dù sương lạnh như bông tuyết đào.
Các người mê đắm chiêm bao,
Muôn muôn kiếp mộng kết vào cảnh thân.
Tham mê mãi mãi xoay vần,
Trăm đường cũng tại dấu chân kiếm tìm.
Sao như đá núi tịch nhiên,
Như chìm tịnh độ giữa miền cỏ hoa…”
Giọng sư ấm khắp pháp tòa,
Mở lòng ni chúng chan hòa từ quang.
Vườn xuân rực rỡ sắc hương,
Chùm hoa tỉ muội trên giàn nở tươi.
Bài thơ Vi Diệu Tỳ-khiêu-ni - phần 2 của tác giả Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long
Nghệ danh: Phạm Thiên Thư
Tên thật: Phạm Kim Long
Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Phạm Thiên Thư - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác