Dứt luỵ trần
Một thời đức Phật du phương, Ngự trong vườn trúc mây vương biếc chiều. Bên dòng suối cát trong veo, Gian nhà cỏ dựng mây neo hững hờ. Trên thảm cỏ nhung ven bờ, Dưới cội hoa trắng vật vờ hoàng hôn. Người ngồi quanh Phật Thế tôn, Trước Ngài đặt một lò
Nội dung bài thơ: Dứt luỵ trần
Một thời đức Phật du phương,
Ngự trong vườn trúc mây vương biếc chiều.
Bên dòng suối cát trong veo,
Gian nhà cỏ dựng mây neo hững hờ.
Trên thảm cỏ nhung ven bờ,
Dưới cội hoa trắng vật vờ hoàng hôn.
Người ngồi quanh Phật Thế tôn,
Trước Ngài đặt một lò hương biếc trầm.
Tiếng vang như suối, vọng âm
Khiến chim hòa điệu, khiến đầm hoa lay:
“Trong hàng đệ tử các ngài
Dù đem châu ngọc cho ngoài tam thiên,
Chẳng bằng dứt lụy trần duyên,
Qua sông mê vọng nương thuyền trí bi.
Hoặc trong họ có người đi,
Hay mình tự giác viễn ly vọng trần.
Phúc này lợi lạc muôn phần,
Làm nên mạch sống tinh cần thế gian.
Ngục sâu kia hóa Niết-bàn,
Lòng thương trải khắp trần hoàn an vui.
Dù xây tháp ngọc lưng trời,
Dù hùng lực cứu muôn người hàm oan,
Vẫn là phúc báo thế gian,
Tham mê dẫn lối đưa đàng vào ra.
Chẳng bằng theo bước Phật-đà,
Chuyển thân, khẩu, ý: ba nhà lửa hun.
Thành bi, trí, dũng vô cùng,
Mở khai nghiệp cội, trùng trùng hóa duyên.
Mắt huệ trông suốt dưới trên,
Chí kim cang phá não phiền vọng mê.
Gieo muôn hạt chắc Bồ-đề,
Rợp che bóng mát bốn bề nhân gian.
Như tìm trong đất ngọc vàng,
Chuốt nên ánh sáng rỡ ràng thiên thâu.
Chiếu tan thành quách ưu sầu,
Khiến ma vương phải quay đầu quy y.
Đức cao chẳng phải tư nghì,
Mênh mang biển thẳm xanh rì hư không.
Nếu ai buộc cánh chim hồng,
Ngăn che chí cả trong vòng trần lao,
Thì nghiệp báo phải sa vào
Ngục sâu lửa đỏ khác nào sắt nung.
Tội kia vạn suối nghìn sông,
Tạo nên biển khổ mênh mông sóng vời.
Xuất gia như cánh chim trời,
Mười phương là tổ, người người là thân.
Trí bi nguồn cội đức nhân,
4.650. Thấm nhuần muôn loại xa gần nhớ ơn.
Như hồ nở đóa sen thơm,
Giới hương đưa khắp mười phương tỉnh lòng.
Đưa nhau vượt thoát trần hồng,
Niết-bàn tự tại nơi lòng đại bi.
Thân như khuôn ngọc lưu ly,
Gương cho ba cõi hướng về tín tu.
Là xe pháp hóa Diêm-phù,
Nối đèn tiếp lửa cho dù biển dâu.
Là tinh tú giữa đêm thâu,
Là chùm Bắc đẩu, là cầu từ quang
Diễn bày ý ngọc lời vàng,
Bước chân tỉnh giác trên đường chính chân.
Như trời hiện đám từ vân,
Chuyển cơn mưa pháp muôn phần đẹp tươi.
Nở hoa giữa ngục ba đời,
Trong hư vọng mỉm môi cười như nhiên.
Mười phương chống một gậy thiền,
Giọt sương cam lộ in viền chân như.
Dòng dòng triệu quyển nghìn thư,
Khế phương diệu dụng chuyển đưa độ đời.
Ngục sâu hết chúng sinh rồi,
Niết-bàn cũng tự lòng người hiện ra.”
Bấy giờ chủ một trang hoa,
Là bực trưởng giả hiệu là Phúc Tăng.
Tiền kho bạc đụn ai bằng,
Ngựa đeo bành ngọc, xe chăng gấm vàng.
Trước sau vườn thúy thềm lam,
Sớm trà luận đạo, khuya đàn hòa mây.
Tuổi cao đức rộng phúc dày,
Thi thư nối nghiệp có bầy con ngoan.
Từ nghe pháp dưới chiều vàng,
Trở về lòng những mơ màng xuất gia.
Một đêm nghĩ lại chuyện qua,
Những là dục lạc, những là quyền danh.
Tuổi xuân thoảng giấc mơ xanh,
Tỉnh ra đã thấy đầy cành đông mai.
Dẫu là trăm vẻ trang đài,
Dẫu là mở cõi Bồng lai dưới trần,
Dẫu là vàng đúc ngọc cân,
Dẫu là cứu giúp xa gần nơi nơi,
Dẫu là danh tiếng tột vời,
Chẳng sao chuộc được tuổi đời qua mau.
Xá chi quyền quý sang giàu,
Xá chi ngày tháng dài lâu hồng trần.
Một trò chơi suốt bao xuân,
Quẩn quanh ảo giác não cân rã rời.
Bây giờ tung cánh chim trời,
Thiên thu ai biết ai người qua đây.
Lênh đênh sớm Bắc chiều Tây,
4.700. Như chim cất cánh hợp bầy hồ giang.
Ông lẻn đi khỏi hoa trang,
Một thân tìm đến đạo tràng vườn kia.
Như chim nhớ núi tìm về,
Khi trông hoa lả mây kề ngõ mai.
Như nước nguồn nhớ sông dài,
Khi tim rộn rã máu ngày thanh xuân.
Vội vàng nhẹ lướt đôi chân,
Hồ như kẻ trốn nợ nần bấy nay.
Vừa vào ngõ trúc hoa bay,
Gặp thiền sư tọa dưới cây trầm hùng.
Lòng ông đang khấp khởi mừng,
Thân dường tan biến giữa rừng cỏ hoa.
Gặp ngày Phật hóa duyên xa,
Tìm thầy Xá-lợi nơi nhà quản Tăng.
Ông quỳ cung kính thưa rằng:
“Thân con tục lụy thế gian đã từng.
Bây giờ muốn phát đại tâm,
Chuyển lòng cởi nghiệp y nương bấy ngày.
Nhờ ơn tiếp dẫn nơi thầy,
Chở che bóng mát nương cây Bồ-đề.”
Biết rằng người phát tâm kia,
Hẳn căn cơ đã đến kỳ mở khai.
Thử lòng cho chắc một hai,
Sư rằng “tuổi cụ đã ngoài chín mươi.
Sức đâu tụ tập với người,
Để truyền năm giới về nơi thôn nhà.
Thứ nhất hạnh tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Vả chăng ốm yếu già nua,
Con đường tầm đạo gió mưa nào chừng.”
Nói xong ông bỏ vào trong,
Phúc Tăng nghe dậy nỗi lòng ủ ê.
Chân dời đến gốc hoa kia,
Nghĩ thân nặng nghiệp đầm đìa lệ rơi.
Tuổi xuân xưa đã bay rồi,
Tiếc hơn vàng ngọc gieo nơi biển trùng.
Bây giờ lòng có nhớ thương,
Cũng đành trông bóng mây vương cuối ngày.
Bụi trần chẳng muốn thêm dây,
Tính đem thân gửi hồ này một phen.
Hồn ta hiện với cánh sen,
Theo hơi hương ngát dâng lên cúng dường.
Bỗng đâu hiện đến đầu đường,
Như cơn mây đỏ vương vương ráng chiều.
Phật cùng đại chúng Tỳ-khiêu
Ôm bình về tới, y điều nghiêm trang.
Gót chân trầm mặc sen vàng,
Bước đi thanh thoát dưới hàng liễu mai.
Phúc Tăng vội đến bên Ngài,
4.750. Ôm chầm tay đức Như Lai rạt rào.
Thốt thưa lời mãi nghẹn ngào,
Hai dòng lệ nóng thấm vào áo hương.
Phật đưa năm ngón tay hường
Vuốt đầu trưởng giả như tuồng cha con:
“Lòng ông so với ngàn non,
Non tuy mòn lở chẳng mòn tâm ta.
Tuổi ông dù đã nua già,
Chí còn nguyện dứt ta-bà vô minh.
Vị chí mà lại trầm mình,
Nghìn năm khó gặp thân hình giả đây.
Tiến tu nào kể một ngày,
Hoát nhiên khai ngộ khắc giây cũng là.
Bây giờ đã biết nương ta,
Nghiêm trang giới pháp gắng mà vượt mê.”
Phúc Tăng chống gậy theo về,
Cây cao trầm lặng bốn bề ra hoa.
Lựa ngày làm lễ xuất gia,
Mục-liên được chọn theo mà sửa sang.
Giới nghi pháp phục đường hoàng,
Rõ ra Tăng tướng nghiêm trang khác người.
Sớm trưa thấm thoát đến ngày
Lập đàn truyền giới họp bầy cao Tăng.
Kiếp xưa nhờ lắm thiện căn,
Nên chi vào đạo học hành thông mau.
Nhưng vì tập nhiễm dày lâu,
Cậy vào tuổi tác nên dầu với ai.
Kiêu căng tỏ ý, hiện lời,
Thiền nghi thiếu hẳn vẻ người khiêm cung.
Khiến cho đại chúng buồn lòng,
Có người răn bảo thuận trong đạo tình.
Phúc Tăng nghe đó làm thinh
Bỏ đi ra vẻ bất bình lắm thay.
Nghĩ rằng ta tuổi chừng này,
Khiêm cung chỉ với một Thầy mà thôi.
Các ông bằng tuổi con tôi,
Giở chi cái vẻ ăn ngồi bực trên.
Càng suy càng lắm buồn phiền,
Định vào rừng chết cho yên thân rồi.
Mục-liên thiền lự trên đồi,
Dùng thiên nhãn chiếu sáng ngời gần xa.
Bên khe thấy đệ tử già,
Dưới dòng nước bạc vừa sa thân gầy.
Ngài dùng thần lực vớt ngay,
Thần thông đạp nắm mây bay xuống bờ.
Thấy thầy lòng những ngẩn ngơ,
Phúc Tăng còn tưởng giấc mơ tỉnh dần.
Rằng “con xả phú cầu bần,
Tìm nơi giải thoát nương thân cuối chiều.
Vì còn thói xấu tật kiêu,
4.800. Lòng toan tự sát cho tiêu nghiệp trần.
Trần gian sớm dứt nợ nần,
Đem bùn tanh xuống rửa chân giữa dòng.”
Mục-liên thầm nghĩ trong lòng,
Chẳng trồng nhân thiện lại mong quả lành.
Dễ chi vào cửa phù trần,
Trăm nghìn vạn kiếp một lần khó thay.
Non vàng khó sánh thân này,
Xô tan mê vọng tự tay mới là.
Phải dùng thần phép hóa ra,
Làm phương cứu chữa lòng già đảo điên.
Bèn truyền “nắm áo bay lên
Giữa hư không chớ có quên điều này.
Cấm lòng loạn tuởng đó đây,
Nhiếp tâm chính niệm theo thầy vân bôn.”
Phúc Tăng vừa nắm áo xong,
Bỗng như một sợi tơ hồng vút cao.
Bên tai mây cuộn ào ào,
Như bông hoa nhỏ rơi vào từng không.
Chẳng bao lâu hạ bên cồn,
Ầm ầm biển réo ghê hồn dưới chân.
Còn đang đứng lặng phân vân,
Thầy trò đã gặp một thân đàn bà.
Xương lòi, thịt thối rã ra,
Một con bọ lớn như là ngón tay
Quẩn quanh bò khắp đó đây,
Hết luồn hố mắt, lại vầy vành môi.
Hai người ngó xác sình ôi,
Quán thân bất tịnh, lát rồi lại đi.
Giữa đường gặp một nữ nhi,
Vai đeo chảo lớn đi về biển reo.
Thầy trò dừng bước ngó theo,
Cô kia múc nước, ôm trèo bãi cao.
Đun sôi rồi tự nhảy vào,
Rã tan xương thịt bọt trào gớm ghê.
Lửa tàn vạc cũng khô đi,
Gió đâu thổi bốc bụi gì tanh hôi.
Tự nhiên lại hiện thân người,
Lại ôm vạc xuống rú cười giờ lâu.
Phúc Tăng nhắm mắt quay đầu,
Tính xin thầy chỉ trước sau ngọn ngành.
Thấy ngài trầm mặc trang nghiêm,
Lại thôi chẳng dám nhìn lên ngỏ lời.
Thầy trò lại tiếp đi ngay,
Vừa qua một quãng đường dài đã nghe
Tiếng rên non nỉ tỉ tê,
Từ thân cây nọ bốn bề sâu ăn.
Phúc Tăng nhác thấy rợn mình,
Vội vàng xoải bước thu hình lướt qua.
Thầy trò thêm một quãng xa,
4.850. Thấy non kiếm dựng sáng ngời hôi tanh.
Bỗng từ đỉnh núi một anh,
Lăn mình trên kiếm thân phanh nát nhừ.
Ròng ròng máu đỏ như mưa,
Phúc Tăng hồn phách bấy giờ tiêu tan.
Vội vàng lướt xoải bước chân,
Cuối đường hun hút phù vân dật dờ.
Thầy trò lại gặp bên bờ
Một bầy quỉ dữ hét hò rượt theo
Một người mình rắn đầu beo,
Trên đường lẩn trốn hiểm nghèo gớm ghê.
Cung tên giáo mác bốn bề,
Hàng ngàn mũi nhọn lao về liên miên.
Vừa trông thấy Mục-kiền-liên,
Một bầy quỉ dữ phục bên đường dài.
Phúc Tăng sợ chẳng ra hơi,
Một lòng tưởng Phật chẳng rời niệm thiêng.
Lại theo cất bước trèo lên,
Núi xương ai chết ngay bên vệ đường.
Thầy trò lên đỉnh núi xương,
Nhìn ra muôn sóng trùng dương dựng thành.
Phúc Tăng khiếp đảm nhìn quanh:
“Xin thầy chỉ dạy ngọn ngành trước sau.
Vì đâu người nấu vạc dầu,
Vì đâu cây nọ rầu rầu đứng kêu.
Vì đâu núi kiếm thân bêu,
Vì đâu trăm nỗi nghìn chiều thảm thương.”
Thầy truyền: “ác báo tai ương,
Vô thường tìm chốn vô thường vào ra.
Tự ta lại buộc thân ta,
Non cao dễ vượt ái hà khó vơi,
Bãi kia một xác sình ôi,
Đó là vợ đẹp của người khách thương.
Theo chồng, đang vượt trùng dương,
Vào ra nhồi phấn soi gương bấy ngày.
Một đêm gió dập mưa vầy.
Lao đao thuyền nọ chìm ngay giữa dòng.
Còn đâu má phấn môi hồng,
Hồn nương ngọn sóng, thân bồng bềnh trôi.
Biển nào giữ xác sình ôi,
Dạ-xoa, La-sát trả hồi đất kia.
Nàng vì tham sắc chưa lìa,
Đọa thân trùng nọ đi về coi trông.
Chấp mê giả tướng bụi hồng,
Quẩn quanh ái ngã trong vòng trần lao.
Nên làm kiếp bọ ra vào,
Hố tai hố mắt khác nào động hang.
Theo tâm vọng huyễn tham lam,
Chấp đâu lại lựa con đàng về đâu.
Kẻ nào cậy thế sang giàu,
4.900. Tranh cơm kẻ khó, đạp đầu dân đen.
Đầy lòng xiểm nịnh ghét ghen,
Đoạt tiền, cuớp vợ, bán quyền, tranh công.
Trước là mắc bịnh hàn phong.
Lạnh như vùi tuyết nên lòng ước ao
Lửa hơi, thân chết đọa vào,
Hỏa thiêu địa ngục khác nào nấu nung.
Hoặc người mưu đoạt ruộng nương,
Phá chùa thờ Phật, giảng đường chư Tăng.
Giữ giam người chốn giá băng,
Ăn gian, ăn bớt áo quần phát ban.
Trước là bệnh nhiệt khô ran,
Chết đi hồn đọa ngục hàn cứng thân.
Đớn đau nhức nhối trăm phần,
Xương khô thịt nát như dần xác xơ.
Hoặc người tích trữ đầu cơ,
Khiến dân đói khát, vật vờ nơi nơi.
Trước là mắc bịnh đầy hơi,
Chê cơm sợ nước, đọa loài quỉ kia.
Đói như lửa đốt bốn bề,
Mỗi năm tháng bảy kéo về giựt ăn.
Hoặc người ngu muội mê sân,
Khinh chê chính đạo nhân luân bỏ ngoài.
Đốt kinh xé sách Như Lai,
Đọa vào kiếp thú đời đời ngu si.
Nếu người trí dũng từ bi,
Giữ gìn năm giới quy y thánh hiền.
Một lòng thương dưới kính trên,
Chẳng làm phiền não láng giềng ai ai.
Một khi trút bỏ hình hài,
Thân không bịnh khổ tâm ngoài an nhiên.
Nghe kinh, ngắm tượng ân chiêm,
Khởi tâm bố thí phát nguyền thanh cao.
Lìa thân, thần thức sinh vào,
Cung trời Đâu-suất ăn đào trường sinh.
Hoặc trần gian chốn hiển vinh,
Hiền ngoan rất mực thông minh khác người.
Đều do niệm sắp lìa đời,
Dẫn vào địa ngục, lên trời cũng đây.
Tu nhân: niệm thiện khai bày,
Chính tâm tưởng Phật đài mây đón về.
Tịnh độ là cõi lưu ly,
Thần thông trí tuệ từ bi một lòng.
Hoặc sinh nơi cõi trần hồng,
Muôn tai nghìn nạn cũng đồng tránh qua.
Ác nhân: niệm khởi xấu xa,
Lại tìm ngục khổ ái hà báo thân.
Đều do tâm lúc lìa trần,
Dù vinh hay khổ muôn phần cũng đây.
Tiến tu cởi nghiệp sâu dày,
4.950. Linh quang hóa hiện phương Tây cõi thường.
Thị kia chết đuối trùng dương,
Vì tham luyến chút phấn hương tẩm người.
Thức linh đọa xuống thân giòi,
Vào ra quanh quẩn trông coi giả hình.
Còn người đun nước trầm mình,
Tiền thân bóc lột sinh linh đủ điều.
Lại còn thề thốt gian điêu,
Bây giờ họa báo trăm chiều gớm ghê.
Sau đây hỏa ngục lại về,
Mới là quả báo bốn bề chém đâm.
Còn cây than khóc bên đường,
Khắp mình sâu đục như dường đớn đau.
Tiền thân là vị Tỳ-khiêu
Lấy của thường trụ dùng nhiều việc riêng.
Họ hàng kẻ dưới người trên,
Lại nhờ của đó bon chen làm giàu.
Bây giờ thân hóa làm sâu,
Rúc quanh cây nọ đớn đau muôn chiều.
Còn người mình mọc trăm đầu
Bị bầy ác quỉ theo sau rượt hoài,
Trước hay săn bắn muôn loài,
Bây giờ đày đọa bi ai nào chừng.
Còn người lăn đỉnh rừng gươm,
Thây băm máu đổ như tuồng nát tan.
Kiếp xưa là vị tướng quân
Xông pha xâm lược dấu chân máu đầy.
Bây giờ gươm giáo phanh thây,
Ngục sâu thăm thẳm dạn dày một thân.
Còn đây xương chất trắng ngần,
Là ông ngày trước tiền thân một thời.”
Phúc Tăng nghe nói điếng người,
Nhìn xem một đống xương phơi rõ ràng.
Thầy rằng “tương báo oan oan,
Cũng do nhân quả con đàng vào ra.
Thuở xưa có vị vua cha
Trị vì rất mực nhân hòa không hai.
Dưới trên cho đến trong ngoài,
Nhân dân hòa thuận nơi nơi nể vì.
Dân giàu nước mạnh kể chi,
Vua cha lấy đạo từ bi hóa người.
Có một thái tử ham chơi,
Ưa môn cung kiếm chê lời hiền lương.
Nhà vua vì nặng lòng thương,
Ngờ đâu mở cửa cho phường tặc nhân.
Khi vua trăm tuổi an phần,
Bốn phương khói lửa dấu chân bạo tàn.
Xông pha trúc chẻ ngói tan,
Dưới chân thái tử ngàn ngàn thây phơi.
Sinh người chẳng dạy thành người,
5.000. Thà đem vương quốc trao mời hiền nhân.
Tội con cha gánh muôn phần,
Nên vua hiện xuống làm thân cá tràng.
Biển đông một cõi nghêng ngang,
Dưới lòng sóng động chiêu hàng cá tôm.
Loại này sợ ánh thái dương,
Chỉ chờ đêm tối mới trường mình lên.
Một ngày trời nổi mây đen,
Sóng gầm biển động tưởng đêm nào ngờ.
Cá liền len đến ven bờ,
Phơi thây nằm ngủ vật vờ sóng trôi.
Nào ngờ mây kéo cơn rồi,
Nắng hồng ló dạng lưng trời chói chang.
Thảm thương thay kiếp cá tràng,
Bốn bề chỉ thấy hào quang chói lòa.
Mắt mờ đâu lối vào ra,
Đành nằm bờ cát chờ mà siêu sanh.
Đầu thai vào giữa vương thành,
Cũng nhờ kiếp trước tu hành dày lâu.
Sinh ra gặp chỗ sang giàu,
Tiền kho bạc đụn vàng châu kể gì.
Nhân xưa nở hạt từ bi,
Cứu người thương vật quản chi của trời.
Còn đây kiếp trước xương phơi,
Mây che đỉnh ngọn, sóng dời dưới chân.”
Phúc Tăng nhập hóa siêu thần,
Nghe như thoát khỏi nghìn cân đá cùm.
Nghĩ tâm muôn ngọn sóng trùng,
Nổi nênh sinh tử vô cùng réo trôi.
Hốt nhiên tâm vọng bao đời
Tan như sương khói lưng trời thoảng bay.
Thầy trò lại biến lên mây,
Dưới chân thăm thẳm sóng đầy trùng dương.
Thầy như hoa đốm hư không,
Trò như một cánh chim hồng theo sau.
Mây bay nườm nượp ngang đầu,
Hạ chân đã thấy cây cầu suối ngang.
Thầy trò về tới đạo tràng,
Hòa nhan ái ngữ giữa hàng chúng Tăng.
Thân hồng như tỏa hào quang,
Miệng từ như đóa sen vàng đơm hương.
Sớm nghe chim hót bên giường,
Chiều trông khói thoảng vây vương trước lầu.
Một đêm gặp Phật trên cầu,
Chỉ viền trăng dưới dòng sâu tỏa vàng.
Bài thơ Dứt luỵ trần của tác giả Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long
Nghệ danh: Phạm Thiên Thư
Tên thật: Phạm Kim Long
Xem thêm: Tiểu sử Tác giả Phạm Thiên Thư - Cuộc đời, Sự nghiệp, Phong cách sáng tác